Mục lục
Mô tả
- Cây gỗ nhỏ, cao 2 – 10m. Thân nhẵn, không gai hoặc có gai ngắn, thẳng.
- Lá mọc so le, hình trái xoan, phiến dai, gốc tròn, đầu tù có khi lõm, hơi có răng ở gần đầu lá; cuống có cánh rộng, có khi to bằng phiến lá, hai mặt nhẵn, mặt trên bóng.
- Cụm hoa là một chùm mọc ở kẽ lá, gồm 6 – 8 hoa nhỏm, màu trắng hoặc màu vàng nhạt, có 5 lá dài, 5 cánh hoa, 20 nhị.
- Quả hình cầu hoặc hình trứng, có núm, vỏ ngoài sần sùi, khi chín màu vàng nhạt, ruột màu vàng lục, rất chua.
- Mùa hoa: tháng 2 – 4, mùa quả: tháng 5 – 8.
Phân bố, thu hái, chế biến
- Phân bố: Có nhiều ở phía Bắc Việt Nam.
- Phần dùng làm thuốc: Quả chín.
- Thu hái, sơ chế:
Chọn vào tháng 9-10, hái những trái gần chín, phơi khô lúc trời khô ráo hoặc hái quả xanh có đường kính 3-5cm bổ ngang làm đôi phơi khô.
Bào chế
Đem thấm nước cho mềm, bỏ xác múi và hạt ở trong đi rồi xắt mỏng phơi khô trộn sao với nếp hoặc cám cho tới khi gạo vàng hoặc cám gần cháy đen rồi bỏ đi, lấy Chỉ xác, Chỉ xác để lâu càng tốt.
- Bảo quản: Để nơi khô ráo, tránh ẩm.
Thành phần hóa học
- Hesperidin, Neohesperidin, Naringin (R F Albach và cộng sự, Phytochemistry 1969, 8 (1) : 127).
- Synephrine, N-Methyltyramine (Hà Triều Thanh, Trung Dược Chí 1981, 12 (8) : 345).
- Vỏ quả chứa chất dầu 0,469%, trong đó có (-Pinene, Limonene, Camphene, (-Terpinene, p-Cymene,
- Caryophyllene (Nobile Luciano và cộng sự, C A 1969, 70 : 31620b).
Tác dụng dược lý
Chỉ thực và Chỉ xác đều có tác dụng cường tim, tăng huyết áp do thành phần chủ yếu là Neohesperidin nhưng không làm tăng nhịp tim. Thuốc có tác dụng co mạch, tăng lực cản của tuần hoàn ngoại vi, tăng co bóp của cơ tim, tăng lượng cGMP của cơ tim và huyết tương nơi chuột nhắt.
Chỉ thực còn có tác dụng tăng lưu lượng máu của động mạch vành, não và Thận, nhưng máu của động mạch đùi lại giảm (Trung Dược Học).
Nước sắc Chỉ thực và Chỉ xác đều có tác dụng ức chế cơ trơn ruột cô lập của chuột nhắt, chuột lang và thỏ, nhưng đối với chó đã được gây rò dạ dày và ruột thì thuốc lại có tác dụng hưng phấn làm cho nhịp co bóp của ruột và dạ dày tăng. Đó cũng là cơ sở dược lý của thuốc dùng để trị chứng dạ dày sa xuống, dạ dày giãn, lòi dom, sa trực trường…
- Kết quả thực nghiệm cho thấy Chỉ thực và Chỉ xác vừa có tác dụng làm giảm trương lực cơ trơn của ruột và chống co thắt, vừa có thể hưng phấn làm tăng nhu động ruột, do trạng thái chức năng cơ thể, nồng độ thuốc và súc vật thực nghiệm khác nhau mà có tác dụng cả hai mặt ngược nhau, như vậy dùng thuốc để điều chỉnh sự rối loạn chức năng đường tiêu hóa ở trạng thái bệnh lý là tốt (Trung Dược Học).
Nước sắc Chỉ thực và Chỉ xác có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối với tử cung thỏ có thai hoặc chưa có thai, cô lập hoặc không, nhưng đối với tử cung chuột nhắt cô lập lại có tác dụng ức chế.tác dụng hưng phấn tử cung của thuốc phù hợp với kết quả điều trị chứng tử cung sa có kết quả trên lâm sàng (Trung Dược Học).
Vị thuốc chỉ xác
Hình ảnh vị thuốc chỉ xác
Tính vị: Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).
Quy kinh: Vào kinh Vị, Tỳ (Bản Thảo Kinh Sơ).
Tác dụng:
- Tả đờm, hoạt khiếu, tả khí (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
- Tả Vị thực, khai đạo kiên kết, tiêu đờm tích, khứ đình thủy, thông tiện bí, phá kết hung (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
- Hành khí trệ, tan đờm, dẫn khí xuống qua đường đại tiện (Trung Dược Học).
- Phá khí, tiêu tính, đồng thời có tác dụng tả đờm , trừ bỉ tích, hành khí (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách);
Chủ trị:
Tan những chất lưu kết trong bụng, đờm trệ ở ngực, tiêu đầy trướng, yên dạ dày, phong nhập vào đại trường.
Liều dùng
- Dùng 4 – 12g.
Kiêng kỵ:
- Tỳ, Vị hư hàn mà không có thấp tích. Đàn bà có thai, gầy yếu chớ dùng.
Bài thuốc có vị Chỉ xác
Trị trẻ nhỏ lỵ lâu ngày, tiêu ra cơm nước không đều: Chỉ xác, tán bột, mỗi lần uống 4 – 8g (Quảng Lợi Phương).
Trị răng đau nhức: Chỉ xác ngâm rượu súc miệng (Thánh Huệ Phương).
Trị trẻ nhỏ đi tiêu khó: Nướng Chỉ xác, bỏ múi, Cam thảo mỗi thứ 4g, sắc uống (Toàn Ấu Tâm Giám Phương).
Trị lở đau sưng:
- Chỉ xác nướng nóng, chườm vào đó 7 trái (Bí Hiệu Phương).
- Dùng bột Chỉ xác, bỏ vào trong bình nấu sôi thật lâu trước xông sau rửa (Bản Sự Phương).
Trị nấc cụt do thương hàn: Chỉ xác 20g, Mộc hương 4g tán bột, mỗi lần uống 4g, với nước sôi, chưa bớt thì uống tiếp (Bản Sự phương).
Trị trẻ nhỏ nôn mửa, động kinh, nghẹn đờm, co giật: Chỉ xác bỏ múi sao với cám, Đạm đậu khấu, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê, nặng thì 1 muỗng. Nếu cấp kinh phong dùng Bạc hà giã vắt lấy nước uống với thuốc. Nếu mạn kinh phong dùng Kinh giới nấu uống với 3-5 giọt rượu, ngày 3 lần (Bất Kinh Hoàn – Tiểu Nhi Phương).
Trị trẻ nhỏ bị chứng nhuyễn tiết (mụn nhọt mềm có nước): Chỉ xác 1 trái lớn (không lấy loại trắng), mài cho bằng miệng rồi lấy hồ miến bôi quanh miệng, úp lên trên đầu miệng mụn thì có thể tự ra hết máu mủ và không có sẹo (Thế Y Đắc Hiệu Phương).
Trị bụng đầy, người lớn cũng như trẻ nhỏ, khí huyết ngưng trệ: “Tứ Diệu Hoàn” gồm Chỉ xác đầy mà lưng còn xanh, bỏ múi đi, lấy 160g chia làm 4 phần, 40g sao với Thương truật, 40g sao với La bặc tử, 40g sao với Hồi hương, 40g sao với Can tất, xong bỏ các vị ấy đi, lấy Chỉ xác, tán bột dùng. Lấy 4 vị trước sắc lấy nước trộn bột gạo làm thuốc viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm, sau khi ăn (Giản Dị Phương).
Trị vùng xương sườn đau nhức vì sợ quá mà tổn thương tới khí: Chỉ xác (sao) 40g, Đào chi (sống) 20g, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Gừng và Táo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị ngứa do phong chẩn: Chỉ xác, Kinh giới, Khổ sâm, Phòng phong, Thương nhĩ thảo, Bại bồ, nấu nước tắm gội (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị lỵ, mót rặn: Chỉ xác, Binh lang, Thược dược, Hoàng liên, Thăng ma, Cát căn, Cam thảo, Hồng khúc, Hoạt thạch (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị khí hư, đại tiện khó: Chỉ xác, Nhân sâm, Mạch môn đông (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đau ở hông sườn phải: Chỉ xác, Nhục quế (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Phân biệt:
Chỉ thực và Chỉ xác đều là quả phơi khô của hơn 10 cây của chi Citrus và Poncirus học Cam (Rutaceae) nhưng thu hái ở hai thời kỳ khác nhau. Chưa xác định được tên chính xác.
- Ở Trung Quốc còn dùng Chỉ thực hoặc Chỉ xác với nhiều cây khác nhau như cây Câu kết, Chỉ (Poncirus trifolia Raf), cây Hương viên (Citrus wilsonii Tanaka), cây Toàn đăng hay Câu đầu đăng, Bì đầu đăng (Citrus aurantium L) cây Đại đại hoa (Citrus aurantium L Var Amara Engl).
- Có nơi còn dùng quả Bưởi non (Citrus grandis Osbeck) bổ đôi, phơi khô để làm Chỉ thực và Chỉ xác.