Mô tả
- Cây thảo bò rồi đứng, nhánh phình ở các mấu, có lông mịn.
- Lá mọc đối, không bằng nhau từng cặp, phiến xoan rộng 6x4cm, đầu có mũi, gốc tù, gân phụ 5-6 cặp, mép khía răng tròn và nhăn nheo, hai mặt đều có lông thưa; cuống dài 1cm.
- Chùm hoa ở ngọn nhánh, có lá bắc kết lợp; lá đài có lông và rìa lông; tràng màu lam hay hồng, cao 1,5cm; nhị 4, thò; bầu và vòi nhụy có lông.
- Hoa tháng 3-5 trở đi tới tháng 8-9.
Bộ phận dùng
Cả cây trừ rễ – Herba Strobilanthis Affinis.
Nơi sống và thu hái
Cây mọc hoang thành bãi dưới tán rừng thưa, chỗ ẩm mát, ở thung lũng, gần các suối trong rừng ẩm núi cao Hà Giang, Bắc Thái, Lạng Sơn, Ninh Bình.
Thu hái cây quanh năm, tốt nhất là vào đầu mùa hè, phơi khô.
Vị thuốc Cơm nếp
Tính vị, công dụng: Vị đắng, mùi thơm, tính ấm; có công dụng an thần lợi sữa, tiêu viêm.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường được dùng làm thuốc lợi sữa và bó gãy xương.
Bài thuốc có vị Cơm nếp
- Phụ nữ nuôi con ít sữa: Dùng 50-100g lá tươi, luộc vớt bỏ bã, cho gạo nếp vào nấu cháo ăn.
- Bó gãy xương: 50g lá tươi giã nhỏ với 20 g lá Chanh, 20g lá Dâu tằm, 5g muối trắng, một con gà con, đắp bó chỗ gãy.
Phân biệt
Một số loài khác cũng được nhân dân gọi là cây Cơm nếp
Cây cơm nếp – Pandanus amaryllifolius Roxb.
Hình ảnh cây cơm nếp
Trong các sách thuốc ở nước ta, thường gọi là “cây lá dứa”. Cây còn có các tên khác, như “dứa thơm”, “lá dứa thơm”, “cây cơm nếp”, “lá nếp”; sách thuốc Trung Quốc thường gọi là “hương lan”
Cây cơm nếp mọc thành bụi, có thể cao 1m, đường kính thân 1-3cm, phân nhánh. Lá hình mũi mác, nhẵn, xếp thành hình máng, dài 40-50cm, rộng 3-4 cm, mép không gai, mặt dưới có màu nhạt, có nhiều gân cách nhau 1mm. Lá có mùi thơm như mùi cơm nếp (nên có tên là cây cơm nếp); đặc biệt, nếu để khô sẽ càng thơm hơn.
- Cây vốn mọc hoang dại, do lá có mùi thơm dịu, hiện tại được trồng khắp nước ta, nhiều nhất ở các tỉnh phía Nam, để lấy lá (tươi hay khô) cho vào thức ăn như bánh, kẹo, rượu, …Tại Malaixia, cây cũng được trồng để lấy lá bỏ vào thức ăn và hấp cơm cho có mùi thơm; còn dùng để nhuộm hồ cho có màu xanh chlorophylle.
Cơm nếp – Strobilanthes acrocephalus T. Anders
Hình ảnh cây cơm nếp
Trong các sách thuốc ở nước ta, còn đề cập đến một cây cơm nếp khác.
Là loài cây thảo (cỏ), thân mềm, mọc bò rồi dựng đứng lên, ở mỗi mấu đốt thân phình lên. Lá mọc đối, thành từng cặp không bằng nhau; mép khía răng cưa tròn và nhăn nheo, hai mặt đều có lông thưa, để héo có mùi thơm như mùi cơm nếp (do đó có tên là “cây cơm nếp”). Hoa mọc thành bông ở kẽ lá hay đầu cành. Mùa hoa quả từ tháng 3-5 tới tháng 8-9.
- Để làm thuốc, dùng toàn cây, trừ bỏ rễ, cắt thành từng đoạn, phơi hay sấy khô. Mùa thu hái gần như quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa hè.
- Dân gian dùng cây này sắc uống (hoặc sắc lấy nước nấu cháo) để lợi sữa và tăng sức khỏe cho sản phụ; còn dùng làm thuốc an thần, chữa đau đầu khó ngủ. Một số địa phương, thường sử dụng cây cơm nếp này, phối hợp với lá chanh, lá dâu tằm, gà con, … để bó gãy xương. Tuy nhiên, cây này có độc, do đó người không có kinh nghiệm, chỉ nên dùng để đắp ngoài.