Mô tả
- Cây gỗ nhỏ, thường mọc thành bụi, cao 2 – 4 m. Ngọn cành và cuống lá non màu đỏ tím.
- Lá mọc so le, kép lông chim, dài 10 – 25cm, có 3 – 9 lá chét. Lá chét hình mũi mác, dài 3,5 – 7,5cm, rộng 1,5 – 3,5cm, đầu lá thuôn hẹp tạo thành mũi nhọn, cuống lá chét dài 3 – 5mm. Mặt trên lá bóng soi thấy rõ nhiều túi tiết tinh dầu. Mép lá nguyên, có nhiều túi tiết nằm sát mép lá trông như có răng cưa nhỏ.
- Cụm hoa là một chùm xim ở đầu cành, mang nhiều hoa nhỏ trắng. Hoa mẫu 4. Cánh hoa dài 4 – 6mm, rộng 1,5mm. 8 nhị: 4 nhị ngoài dài 5mm, 4 nhị trong dài 4mm. Bộ nhụy dài khoảng 3mm sần sùi.
- Quả hình cầu hay bầu dục, đường kính 7 – 9mm, vỏ quả có nhiều túi tiết tinh dầu, khi chín màu đỏ. Có 1 – 2 hạt.
- Mùa hoa tháng 3 – 4, mùa quả chín tháng 9 – 10. Cây tái sinh bằng hạt và vô tính.
Nơi sống và sinh thái
Cây mọc hoang ở vùng núi đá vôi, ở độ cao khoảng 100 m. Cây ưa sáng, chịu hạn.
Phân bố: Việt Nam: Quảng Ninh, Hải Phòng (Cát Hải: đảo Cát Bà), Ninh Bình (Tam Điệp), Thanh Hóa (Hà Trung, Vĩnh Lộc, Đông Sơn, Nông Cuống, Nga Sơn, Quảng Xương).
Thành phần hóa học
Theo T. B. Govindachary, B. p. Pai, p. s. Subramania và N. Muthukumaraswamy (1967), trong vỏ rễ cây có các chất imperatorin, dentatin và nordentatin.
Ở nước ta, vào năm 1965, cụ Đào Đình Khuê ở Thanh Hóa đã cất tinh dầu củ khỉ dùng làm thuốc chữa cảm mạo, sốt rét, đau nhức sau đó Xí nghiệp dược phẩm Thanh Hóa khai thác để cất tinh dầu xoa cảm, tiếp theo là Trạm nghiên cứu dược liệu Thanh Hóa.
- Trong lá có 5%, cành 0,5% và quả 6% tinh dầu (tính trên nguyên liệu khô). Trên quy mô vừa phải, cành và lá tươi cho từ 1,4 đến 2% tinh dầu.
- Tinh dầu củ khỉ có màu vàng nhạt, mùi thơm đặc biệt của củ khỉ, tỷ trọng d (ở 20°C) 0,9048, năng suất quay cực 1,4559, chỉ số axit 2,33, chỉ số este 7,11, chỉ số este sau khi axetyl hóa 29,72. Trong tinh dầu củ khỉ có 51,9% izomenton và 42,2% menton
Vị thuốc Củ khỉ
Tính vị: vị đắng, hơi cay và mát
Tác dụng:
- Dùng trong những trường hợp cảm mạo, sốt rét, trừ thấp tiêu thũng, đau khớp. Ngày dùng 8-16g dưới dạng thuốc sắc.
- Hiện nay còn dùng làm nguyên liệu cất tinh dầu để chế thuốc xoa cảm cúm, đau bụng.
- Gần đây, ngoài những công dụng trên, nhân dân một số nơi ở nước ta đã cất tinh dầu củ khỉ để dùng phối hợp vái một số tinh dầu khác như bạc hà, khuynh diệp chế dầu xoa bóp, dầu uống chữa cảm mạo, đau nhức.
Có thể dùng tinh dầu để chiết menton và izomenton để từ đó chuyển thành mentola nhưng vấn đề quan trọng ở đây là tăng nguồn cây vì hiện nay người ta mới thấy củ khỉ sống tự nhiên ở những vùng có núi đá vôi, việc trồng và phát triển cũng chậm, so với những nguồn nguyên liệu khác.
Ghi chú:
- Hiện nay, củ khỉ đang ở mức độ bị đe dọa: Bậc T. Do bị khai thác nhiều để cất tinh dầu nên số lượng cá thể giảm sút nhanh và bị cạn liệt.