Mục lục
Mô tả cây
- Lười ươi là một cây to, cao 30-40m, thân có thể cao 10-20m mà chưa phân nhánh, đường kính thân 0,8-1m. Lá đơn, nguyên hay xẻ thuỳ, mặt trên màu lục, mặt dưới nâu hay ánh bạc, dài 18-45cm, rộng 18-24cm, cuống dài.
- Hoa nhỏ, không cuống, họp từng 35 thành chuỳ ở đầu cành. Mỗi hoa cho 1-2 quả đại, dạng lá, hình trứng hay giống như đèn treo, do đó có tên lychnophora (do chữ lychnus là đèn), dài 12- 16cm, rộng 4-5cm ở phần rộng nhất của phía dưới quả. Màu đỏ hay đỏ nhạt, mặt trong ánh bạc, với 4-5 đường gân nổi rõ. Một hạt dài 2,5cm, rộng 1416mm, dày 5-7mm.
- Lá xuất hiện vào tháng 3-4 và rụng vào tháng 1, hoa xuất hiện vào tháng 3-4, trước khi lá phát triển.
- Quả xuất hiện vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 và mở ra trước khi hạt chín. Khi chín quả đại tách ra, hạt còn lại thường nhẵn là quả, có hai cánh, thực tế chỉ là hai thuỳ dạng lá của quả đại. Thịt quả gồm 3 lớp: Lớp ngoài mỏng, lớp giữa dày mẫm, gồm những tế bào họp thành chuỗi chứa chất nhầy, lớp trong nhẵn và màu trắng nhạt.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Lười ươi chỉ mới thấy phân bố và được sử dụng, khai thác ở miền Nam nước ta tại những vùng Biên Hòa, Bà Rịa, Bình Định, Bình Thuận, Phú Yên, Quảng Trị cũng có một ít. Ngoài ra còn thấy ở Campuchia (khu vực Kampot, dãy núi Kamchay, Srenhiot). Thái Lan, các đảo thuộc Malaixia.
- Vào tháng 4-5, người ta thu hoạch hạt, phơi hay sấy khô: Hạt hình trứng dài 2,53,5cm, rộng l,2-2,5cm, màu nâu đỏ nhạt, trên mặt nhăn nheo, nổi trên nước, nhưng khi ngâm với nước thì sau một thời gian nở rất to, gấp 8-10 lần thể tích của hạt, thành một chất nhầy màu nâu nhạt, trong, vị hơi chát, mát, do đó châu Âu gọi là “hạt nở” (graine gonflante).
- Hạt được khai thác rất nhiều ở miền Nam để dùng tại chỗ và xuất khẩu.
Thành phần hoá học
Hạt lười ươi gồm hai phần: Phần nhẵn chiếm khoảng 35% và phần vỏ chiếm khoảng 65%. Trong nhân có chất béo (2,98%), tinh bột và chất đắng. Trong vỏ có khoảng 1% chất béo, 59% bassorin, chất nhầy và tanin. Phần đường trong hạt gồm chủ yếu galactoza. pentoza và arabinoza.
Công dụng và liều dùng
- Theo tài liệu cổ (ghi trong Bản thảo thập di của Triệu Học Mẫn-thế kỷ 18) lười ươi có vị ngọt, có tác dụng thanh nhiệt, lợi cổ họng, giải độc, thường dùng chữa ho khan, cổ họng sưng đau, nôn ra máu, chảy máu cam.
- Hiện nay công dụng chủ yếu của vị lười ươi là mát và nhuận: Chỉ cần 4-5 hạt vào một lít nước là đủ có một thứ nước sền sệt như thạch, thêm đường vào mà uống trong trường hợp ho khan không đờm, cổ họng sưng đau, viêm đường tiết niệu. Ngày dùng từ 2 đến 5 hạt, cho vào cốc nước nóng, chờ một lúc cho hạt nở ra, thêm đường vào cho đủ ngọt chia nhiều lần uống trong ngày.
Vị thuốc lười ươi
Hình ảnh vị thuốc Lười ươi
Tính vị: vị ngọt, tính hàn.
Quy kinh: Phế, Đại tràng.
Công dụng:
- Hiện nay công dụng chủ yếu của vị thuốc này là mát và nhuận. Chỉ cần 4-5 hạt vào một lít nước là đủ có một thứ nước sền sệt như thạch, thêm đường vào mà uống trong trường hợp ho khan không đờm, cổ họng sưng đau
- Viêm đường tiết niệu ngày dùng 2-5 hạt, cho vào cốc nước nóng, chờ một lúc cho hạt nở ra, thêm đường vào cho đủ ngọt chia nhiều lần uống trong ngày.
Liều dùng :
- Liều dùng 3 – 5 quả bỏ vào nước sôi uống hoặc sắc uống.
Bài thuốc có vị lười ươi
Trị viêm amidan cấp:
Dùng 4 – 8 quả cho vào bình trà, đổ nước sôi vào uống hết sau khi ngâm nửa giờ, cách 4 giờ 1 lần, trong 2 – 3 ngày. Trị khỏi 68 ca, tốt 21 ca (Lưu phúc Bình, Tạp chí Trung y Triết giang 1966, 5:180).
Trị đau họng, ho khan không có đờm, khàn tiếng, cốt chưng nội nhiệt, chảy máu cam:
Lười ươi 3 hạt, mật ong 15ml. Hãm với nước sôi uống thay trà.
Trị chảy máu cam ở trẻ nhỏ:
Lười ươi 2-5 hạt sao vàng, nấu lấy nước cho trẻ uống trong ngày.
Táo bón do tích nhiệt:
Dùng Bàng đại hải dưới dạng hãm hoặc phối hợp với các dược liệu nhuận tràng khác.
Lưu ý
- Không dùng kéo dài
- Tiêu chảy không dùng