A. Mô tả cây
- Cây mọc hằng năm hay 2 năm. Thân gầy nhỏ, màu xanh lục nhạt có lông mịn, phân nhánh hoặc không phân nhánh. Cao từ 2040cm.
- Lá phía gốc mọc sát mặt đất thành hoa thị, cuống ngắn hoặc không cuống; phiến lá xẻ thành nhiều răng cưa thô to, trên phiến lá có lông nhỏ. Lá phía trên không có cuống, ôm lấy thân cây, mép có răng cưa hoặc nguyên hay hơi cắt sâu.
- Hoa mọc thành chùm ngắn ở đầu cành hay kẽ lá. Hoa nhỏ màu trắng. Đầu xuân nở hoa, 4 cánh, 4 lá đài xếp thành hình chữ thập. Nhị 4. Bầu thượng, 2 ngăn.
- Quả hình tim ngược dẹt giống cái túi của người chăn cừu bên châu Âu, do đó có tên Bursa là túi, pasoris có nghĩa là người chăn cừu
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang ở miền Bắc Việt Nam, nhiều nhất ở vùng Sapa (Lào Cai), Ninh Bình, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tây, Hà Nội thường thấy trên các bãi hoang.
Tại các nước khác như Trung Quốc, Liên Xô cũ, Pháp và một số nước châu Âu đều có mọc. Thu hoạch vào mùa hạ (từ ngày lập hạ đến hạ chí-theo nông lịch). Nhổ toàn cây lên, cắt bỏ rễ, phơi khô.
C.Thành phần hoá học
- Theo Read và Bernard trong quả tề thái có 28% chất béo, tinh dầu, axit bursic, diosmin (một loại glucozit), hysopin, colin, 0,4% axetylcolin, men emunsin, vitamin A2, vitamin B2, C, K và các flavonozit, 10-15% tro. Ngoài ra còn axit fumaric và inozit.
- Năm 1973, M. Yurisson phát hiện trong tề thái có rutin và hesperidin (Pharmacia 5.1973)
- Diosmin có công thức C34H64O21 thuỷ phân sẽ cho diosmetin C16H12O6 hai phân tử glucoza và một phân tử ramnoza; diosmetin là một flavon.
- Trong hạt có chất béo.
- Trong cây có axit fumaric (diên hồ sách toan) và nhiều muối kaki (40% tro là muối kaki) ngoài ra còn có colin. Gần đây người ta còn thấy trong tề thái có vitamin K. Không thấy ancaloit.
D. Tác dụng dược lý
- Tề thái có tác dụng trên tử cung cô lập hay trên mẩu ruột đều gây co bóp rõ rệt, axit bursic có tác dụng cầm máu. Vì trong tề thái có colin và axetylcolin cho nên cao lỏng tề thái tiêm dưới da động vật, lập tức gây hạ huyết áp và co thắt cơ hô hấp (Hòa hán dược dung thực vật, 1940 và Dược lý đích sinh dược học, 1933).
- Năm 1957, (Thượng hải trung y dược tạp chí, 1: 15-27) đã báo cáo dùng nước sắc và cao lỏng tề thái thí nghiệm trên tử cung cô lập của chuột bạch, tử cung tại chỗ của thỏ và mèo, tử cung trường diễn của thỏ thì đều thấy có tác đụng hưng phấn. Thành phần gây hưng phấn tử cung tan trong nước, trong rượu loãng, không tan hoặc rất khó tan trong cồn nguyên chất, ête dầu hỏa, ête etylic và clorofoc không có nước. Các tác giả cho uống nước sắc tề thái và tiêm cao lỏng vào màng bụng rồi quan sát thời gian xuất huyết ở đuôi chuột nhắt; lại tiêm cao lỏng vào mạch máu thỏ rồi theo dõi thời gian đông máu thì thấy tề thái có tác dụng cầm máu và máu chóng đông lại.
- Tiêm cao lỏng tề thái vào tĩnh mạch của chó đã gây mê thì thấy có tác dụng hạ huyết áp, đồng thời hô hấp được hưng phấn; nếu như tiêm atropin trước thì có thể làm cho hiện tượng hạ huyết áp không xuất hiện, nhưng hiện tượng hô hấp hưng phấn không bị ảnh hưởng.
E. Công dụng và liều dùng
Tính vị: Vị ngọt, dịu, tính bình
Quy kinh: Vào can và vị
Tác dụng:
- Thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi niệu, chỉ huyết, minh mục, giáng áp.
- Ngoài ra còn có tác dụng trương lực, cầm máu, điều hoà kinh nguyệt, làm tiêu sỏi.
Công dụng:
Thường dùng chữa: Cảm mạo phát nhiệt, sởi, viêm ruột, đau bụng ỉa chảy, sỏi niệu đạo, sỏi bàng quang, sỏi thận, đái ra dưỡng trấp, huyết áp cao, thổ huyết, đái ra máu, băng huyết, kinh nguyệt quá nhiều, mắt đỏ sưng đau, bệnh thanh manh ế chướng. Dùng ngoài chữa mụn nhọt Trĩ, lấy cây tươi giã đắp.
- Trong Bản thảo cương mục ghi rằng: Tề thái có khả năng lợi gan, hoà trung, lợi ngũ tạng, rễ dùng chữa đau mắt, làm sáng mắt, ích dạ dày, rễ và lá đốt thành than chữa xích bạch lỵ; hạt minh mục (làm sáng mắt) chữa đau mắt, thong manh, bổ ngũ tạng, chữa lỵ lâu ngày.
F. Liều dùng:
- Liều dùng 6-12g hay hơn (15-60g) sắc uống.
- Có thể dùng cao lỏng mỗi lần 1-3ml, ngày 3 lần, hoặc cồn 1/10 ngày dùng nhiều lần, mỗi lần 15ml.
- Dùng ngoài liều không cố định
Bài thuốc có vị tề thái
Chữa lao thận: Tề thái 30g, đun sôi với 3 bát nước, sắc còn lại 1 bát rồi thêm một quả trứng hòa uống.
Chữa đái ra dưỡng trấp: Rễ Tề thái 120g, nấu uống. Ngày uống 1-2 lần và liên tục trong 1-3 tháng.
Chữa rong kinh: Một nắm Tề thái tươi cho thêm một bát nước đun sôi uống, cứ 2 giờ uống một tách, liên tục 2 ngày thì cầm.
Chữa gan nóng mắt mờ: Dùng Tề thái nấu cháo ăn luôn thì bổ gan sáng mắt.
Chữa đi lỵ ra máu: Dùng Tề thái cả rễ đốt tồn tính hay sao già, sắc uống. Chữa lỵ mạn tính thì dùng hoa Tề thái sấy khô tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với nước cơm.
Chữa cảm sốt cao, nổi mẩn, viêm thận phù thũng, đái ra dưỡng trấp: Dùng Tề thái khô 40g (hoặc 80g tươi) sắc uống riêng, hay phối hợp với các vị thuốc khác. Ngày uống 1-2 lần, liên tục trong 1-3 tháng.
Chữa kinh nguyệt quá nhiều: Tề thái 15g (khô), nước 200ml, sác còn l00ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa ho khạc ra máu: Tề thái tươi 30g, ngó sen 30g. Sắc nước uống.
Tham khảo
Món ăn thuốc có tề thái:
- Chè tề thái mứt táo ngó sen: tề thái 60g, ngó sen 20g, mứt táo 5 quả, thêm nước lượng thích hợp nấu sắc thành dạng canh hoặc chè đặc, ăn cả cái lẫn nước. Dùng cho các trường hợp chảy máu cam, chảy máu chân răng.
- Canh tề thái xương lợn: rau tề thái tươi 100g, xương lợn 80 – 100g. Xương lợn chặt nhỏ, ninh cho nhừ rồi cho tề thái, thêm muối mắm gia vị. Ăn trong ngày 1 – 2 lần vào bữa chính. Dùng cho các trường hợp chảy máu cam, đái ra huyết, đau mắt đỏ…