A. Mô tả cây
Thanh thất là một cây gỗ lớn. Lá kép lông chim lẻ, kích thước lớn, dài 0,6-1 m thường tập trung ở gần ngọn cành, đứng dưới nhìn lên trông như những tán nhỏ có hình như mạng nhện. Lá chét lệch, hơi cong lưỡi liềm, lá già trước khi rụng có đỏ tiết. Hoa mọc thành xim đơn, xếp thành chùy ở kẽ lá, dài 20-25cm. Quả có cánh dài 7-8cm, rộng 18mm, mang một hạt ở giữa quả. Hạt tròn và dẹt. Thoạt nhìn qủa ta có thể nhầm với quả của một chi Dalbergia họ cánh bướm.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
- Cây mọc hoang dại trong những rừng các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Trước đây người ta trồng ngay gần Hà Nội để lấy lá nhuộm đen satanh. Còn mọc ở Ấn Độ.
- Chủ yếu được khai thác như một loại cây gỗ tốt. Để làm thuốc ta có thể dùng vỏ và lá phơi hay sấy khô.
C. Thành phần hóa học
Trong vỏ thân mùi thơm, vị rất đắng có một chất giống như nhựa màu đỏ nhưng không tan trong rươu, trong ether và trong nước. Khi khía vỏ người ta được một thứ nhựa màu đỏ nâu, hay xám dẻo, mùi thơm, tại Ấn Độ người ta gọi là matipaula. Khi đốt tỏa ra mùi thơm dễ chịu, do đó Ấn Độ xem nhựa này là một chất thơm quý và đắt.
D. Vị thuốc Thanh thất
Tính vị: vị đắng, mùi thơm, tính ấm, không độc
Tác dụng: Có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, thu liễm chỉ lỵ, sát trùng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
- Vỏ dùng chữa bệnh lỵ, bạch đới. Ở Ấn Độ nhựa dùng trị lỵ; dịch vỏ tươi dùng trị lỵ. Thường dùng 30g phối hợp với sữa sủi bọt 30g.
- Nhân dân còn sử dụng vỏ và lá cây sắc uống để chữa sốt, hoặc cho sản phụ uống để bổ máu, tiêu cơm. Cũng dùng ngâm rượu uống làm thuốc bổ.
- Quả cây được sử dụng sắc uống Chữa ho và điều kinh.
Bài thuốc có vị Thanh thất
Lỵ ra máu, đau bụng chói hay đại tiện ra máu: Vỏ (thân hoặc rễ) Thanh thất phơi khô, tán nhỏ, uống mỗi lần 6-12g.
Chữa bạch đới: Vỏ cây Thanh thất tán bột với Hoạt thạch, lượng bằng nhau, uống 10-20g chia làm 2-3 lần trong ngày.