A. Mô tả cây
- Thương truật là một loại cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m, có rễ phát triển thành củ to, thân mọc thẳng đứng. Lá mọc so le, gần như không có cuống, lá ở phía gốc chia 3 thùy nhưng cắt không sâu. 2 thùy hai bên không lớn lắm, thùy giữa rất lớn, lá phía trên hình mác, không chia thùy. Mép lá trên lá dưới đều có răng cưa nhỏ nhọn.
- Cụm hoa hình đầu, tổng bao do 5-7 lớp như ngói lợp, lớp dưới cùng chia nhỏ hình lông chim. Hoa hình ống, những hoa phía ngoài là hoa cái, những hoa trong lưỡng tính, tràng hoa màu trắng hay tím nhạt, đỉnh chia 5 thùy xẻ sâu, 55 nhị (bị thoái hóa ở hoa cái), nhụy có đầu vòi chia hai, bầu có lông mềm nhỏ. Cụm hoa thương truật so với cụm hoa bạch truật nhỏ và gầy hơn. Quả khô.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
- Thương truật từ trước đến nay ta vẫn phải nhập của Trung Quốc gần đây mới trồng được ở Việt Nam, nhưng chưa phát triển đủ để tự túc được. Tại Trung Quốc, thương truật mọc ở Giang Tô, Hồ Bắc, Hà Nam, loại của Giang Tô được coi là tốt nhất, Hồ Bắc sản xuất nhiều, tiêu thụ ở Hoa Bắc, Đông Bắc và xuất khẩu.
- Có thể mùa thu hoạch vào mùa xuân hay thu, loại thu hoạch vào các tháng 7-8 được coi là tốt hơn. Đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô. Có nơi đem đốt nhẹ rễ để loại bỏ rễ con hay có nơi lại cạo bỏ vỏ ngoài để lộ các túi tinh dầu màu vàng trông bề ngoài đẹp, nhưng cả hai phương pháp đều không nên áp dụng vì làm như vậy tỷ lệ tinh dầu sẽ bị giảm.
C. Thành phần hóa học
Trong thương truật có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là atractylola C15H26O và atractylon C14H18O. theo nghiên cứu của hệ dược thuộc Viện nghiên cứu y học Trung Quốc thì trong thương truật Hồ Bắc, Giang Tô, An Huy và Hà Nam (Trung Quốc) tỷ lệ tinh dầu lên tới 5-9% trong khi đó thương truật ở một bộ phận của Hà Nam, Thiểm tây tỷ lệ tinh dầu là 3-5%, các tỉnh khác như Liêu Ninh, Hắc Long Giang, Cát Lâm, Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây thì tỷ lệ chỉ có 1-3%.
D. Tác dụng dược lý
- Năm 1927 Kim Thượng Tần báo cáo liều nhỏ tinh dầu của thương truật có tác dụng tĩnh đối với một loại ếch xanh (Trung Quốc), đồng thời xúc tiến cơ năng phản xạ của tủy sống, nhưng nếu dùng liều cao có tác dụng ức chế trung khu thần kinh rồi đến chết do ngừng hô hấp
- Năm 1936, Kinh Lợi Bân và Lý Đăng Bảng dùng cao thương truật tương đương với 6g vị thuốc trên 1kg thể trọng, tiêm dưới da cho thỏ thì thấy trong vòng 2-5 giờ, lượng huyết đường giảm xuống; đối với tim ếch cũng có tác dụng ức chế tĩnh mạch với liều nhỏ (0,1-0,3g cho 1kg thể trọng) thì làm cho huyết áp hơi tăng cao, liều cao (0,5-2ml trên 1kg thể trọng) thì làm cho huyết áp hạ thấp, nhưng đối với hô hấp thì dù liều to hay nhỏ đều làm cho tạm thời tăng nhanh và không có tác dụng lợi tiểu rõ rệt. đối với tá tràng cô lập của thỏ thì có tác dụng ức chế
- Bạch truật so với thương truật tác dụng cũng hơi giống nhau. Năm 1952, Đặng Vũ Phi đã thí nghiệm thấy bạch truật có tác dụng ức chế đối với một loại vi trùng gây bệnh ngoài da.
- Theo đông y thì thương truật vị khổ (đắng), tân (cay), khí liệt (mạnh) cũng vào hai kinh tỳ và vị như bạch truật. có khả năng kiện tỳ, tóa thấp phát hãn, bạch truật vị khổ, cam (ngọt) khí hòa, do đó đông y thích dùng bạch truật và ít dùng thương truật trên thị trường thương truật tiêu thụ ít và chậm hơn bạch truật.
E. Vị thuốc Thương truật
Hình ảnh vị thuốc Thương truật
Tính vị: Vị cay, đắng, tính ôn
Quy Kinh: Vào kinh Tỳ, Vị
Công dụng và liều dùng: Thương truật có khả năng hạ thấp lượng huyết đường quá cao, có thể dùng trong bệnh huyết đường, còn dùng trong triệu chứng tinh thần không phấn khởi, chân tay không có lực và cũng có tác dụng bổ dạ dày, giúp tiêu hóa.
F. Liều lượng:
- Ngày dùng 5-10 g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Kiêng kỵ:
- Người nhiều mồ hôi, táo bón: không dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
- Dùng thuốc có Thương truật phải kiêng ăn quả Đào, Mận, thịt chim Bù cắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Bài thuốc có vị Thương truật
Trị Tỳ kinh có thấp khí, ăn ít, chứng hư lao:
Thương truật thật tốt 20 cân, tẩm nước gạo, bỏ vỏ ngoài, tẩm nước gạo 1 ngày đêm. Hôm sau lấy ra, thái mỏng, phơi khô, sao vàng. Cho vào nồi, đổ đầy nước, nấu 1 ngày 1 đêm, bỏ bã. Lại cho thêm Thạch nam diệp 3 cân (lau sạch màng đỏ), Chử thực tử 1 cân, Xuyên quy ½ cân, Cam thảo 120g, nấu 1 ngày 1 đêm, lọc bỏ bã. thêm Mật ong 3 cân, nấu thành cao. Mỗi lần uống 20g, lúc đói, uống với rượu thì tốt hơn (Sơn Tinh Cao – Ngô Cầu Hoạt Nhân Tâm Thống phương).
Trị mắt có màng mộng, làm thanh vùng đầu mặt, giữ vững hạ tiêu:
Thương truật 1 cân, rửa sạch, chia làm 4 phần. Mỗi phần tẩm với Rượu, Giấm, nước Gạo nếp, Đồng tiện, ngâm 3 ngày, mỗi ngày phải thay nước. Rồi thái mỏng, bồi khô. Thêm Hắc chi ma vào, sao cho thơm, tán bột. dùng rượu nấu với miến làm hồ, trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên (Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm phương).
Trị lưng đau, chân yếu vì thấp khí làm cho tê, chân tay mỏi:
Thương truật 1 cân, thái ra, trộn đều, chia làm 4 phần. Mỗi phần tẩm với nước Gạo, nước Muối, Giấm và Rượu, tẩm 3 ngày đêm, mỗi ngày thay nước 1 lần, rồi phơi khô, trộn đều. Lại chia làm 4 phần, mỗi phần sao chung với Xuyên tiêu, Hồi hương, Bổ cốt chỉ, Hắc khiên ngưu đều 40g. sao cho đến khi bốc mùi thơm thì bỏ các vị kia đi, chỉ lấy Thương truật, tán bột. Dùng Giấm nấu làm hồ, trộn thuốc bột Thương truật làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên, lúc đói, uống với rượu hoặc nước muối.
Trị tóc bạc, làm cho da mặt xinh tươi, trẻ đẹp:
Thương truật 1 cân, dùng nước gạo tẩm ½ ngày, tán bột. Địa cốt bì, rửa với nước ấm cho sạch, bỏ lõi, phơi khô, tán bột, 1 cân. Quả dâu (Tang thầm) chín 20 cân, cho vào chậu sành vò nát, dùng vải hoặc lụa vắt lấy nước cốt, trộn với thuốc bột của 2 vị trên, quấy đều như hồ, đổ vào mâm (bằng nhôm thì tốt). Ban ngày phơi nắng mặt trời, ban đêm phơi sương cho nó hút lấy những khí tinh hoa tinh túy của mặt trời, mặt trăng, đợi đến khi khô, tán bột. Dùng Mật ong luyện hồ, trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 20 viên với rượu ngon, mỗi ngày 3 lần. Uống được 1 năm, tóc đã bạc rồi cũng có thể biến thành đen. Uống liên tục 3 năm thì nhan sắc xinh tươi, trẻ đẹp như thiếu niên (Bảo Thọ Đường phương).
Bổ tỳ, tư thận, sinh tinh, mạnh gân xương:
Thương truật 5 cân, cạo bỏ vỏ thô, bồi khô, tán bột. Lấy nước gạo trộn với bột Thương truật, quấy đều cho đến đáy, gạn bỏ sạn. Hắc chi ma giã, bỏ vỏ, nghiền nát,lấy vải lọc lấy nước cốt, bỏ bã. lấy nước đó hòa với thuốc bột Thương truật, phơi khô. Mỗi lần uống 12g với nước cơm hoặc rượu nóng, lúc đói (Tập Hiệu phương).
Trị mắt đau, quáng gà, mắt híp không mở ra được:
Thương truật ½ cân, tẩm nước vo gạo 7 ngày, bỏ vỏ, thái mỏng, bồi khô. Thêm Mộc tặc 60g, đều tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước trà hoặc rượu (Thánh Huệ phương).
Trị viêm khớp đau do phong hàn thấp hoặc do thấp nhiệt:
Thương truật, Tần giao, Tỳ giải, Mộc qua, Ý dĩ nhân, Tang ký sinh, Thạch hộc, Hoàng kỳ, Thục địa, Thạch xương bồ đều 10g, Quế chi 6g, Tàm sa 10g, Cam thảo 3g, sắc uống.
Trị rối loạn tiêu hóa , bụng đầy, tiêu chảy, nôn, buồn nôn:
Bình vị tán (Hòa tể cục phương): Thương truật, Cao bản, Xuyên khung, Khương hoạt, Bạch chỉ đều 6g, Cam thảo 3g, Tế tân 3g, tán bột mịn gia Sinh khương, Thông bạch sắc uống ấm. Ngoài ra, Thương truật còn dùng trị chứng quáng gà, nấu với gan lợn ăn.