Mục lục
Mô tả cây
- Cây nhỏ mọc hoang loà xoà ở ven đường cái, thân có gai hình móc.
- Lá hai lần kép lông chim, nhưng cuống phụ xếp như hình chân vịt, khẽ động vào lá cụp xuống. Cuống chung gầy, mang nhiều lông, dài 4cm, cuống phụ 2 đôi, có lông trắng cứng. Lá chét 15-20 đối nhỏ, gần như không có cuống.
- Hoa màu tím đỏ, tụ thành hình đầu trái xoan.
- Quả giáp dài 2cm, rộng 3mm, tụ thành hình ngôi sao, ở phần giữa các hạt quả hẹp lại, có lông cứng ở mép. Hạt gần như hình trái xoan, dài 2mm, rộng l,5mm.
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta, không thấy ai trồng. Người ta đào rễ vào quanh năm, rửa sạch đất cát, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học
- Từ cây xấu hổ người ta đã lấy ra được một chất ancaloit gọi là mimosin C8H10O4N2 Chất mimosin có độ chảy 231 độ C α=-2100 (H20), cho muối đồng C8H8O4N2Cu. Theo một số tác giả (R. Adams và J.Wibaut) thì mimosin là đồng phân lập thể của leucenol một chất lấy được từ hạt keodậu Leucaena glauca (xem vị này). Tuy nhiên mimosin chưa phải là hoạt chất độc nhất.
- Trong lá vào tháng 8, hàm lượng selen là 3.000 γ/g và giảm dần đến tháng 12 chi còn 300 γ/g. Trong quả vào tháng 8, hàm lượng selen là 290 γ/ g và sau đó tăng dần tới 1.560 γ/g trong tháng 12.
- Và tác giả nhận xét rằng lá cây xấu hổ có hàm lượng selen rất cao vào mùa hè rồi giảm nhanh, trong khi đó hàm lượng sclen trong quả lại tăng ( Đàm Trung Bảo và cộng sự 1977, Hội nghi khoa học Trường Đại học dược khoa Hà nội, 1974-1977)
Tác dụng dược lý
- Đàm Trung Bảo và cộng sự đã nghiên cứu một sồ tác dụng dược lý của cây xấu hổ: Tác dụng ức chế thần kinh trung ương: Những kết quả nghiên cứu chứng minh kinh nghiệm trong nhân dân dùng cây xấu hổ chống mất ngủ: Hexobacbital và meprobamat chuyển hoá qua micrôsôm gan để mất tác dụng, bacbitan không chuyển hoá qua gan. Xấu hổ có tác dụng hiệp đồng với hexobacbital, meprobamat đồng thời tăng tác dụng của bibactal. Điều này khẳng định tác dụng ức chế thần kinh trung ương của xấu hổ. Tuy nhiên tác dụng hiệp đồng với babital không mạnh như khi kết hợp cây xấu hổ với meprobamat hay hexobacbital nên các tác giả cho rằng xấu hổ còn ức chế được micrôsôm gan nhờ xúc tác của xytocrôm P 450, có thể ở đây xấu hổ ức chế men hexobacbital hydroxylaza và menprobamat C1)-I oxydaza nên kéo dài thêm giấc ngủ hexobacbital và meprobamat.
- Tác dụng chấn kinh: Xấu hổ có tác dụng làm chậm thời gian xuất hiện co giật của cacdiazol.
- Tác dụng giảm đau: Thí nghiệm theo 3 phương pháp: Mâm đồng (ở 56°C), phương pháp Collier (gây đau bằng axetylcolin) và phương pháp Nilsen (kích thích điên) đều thấy có tác dụng rõ rệt.
- Tác dụng của xấu hổ giải độc ơxii asenơ: Uống xấu hổ cùng một lúc với axit asenơ thì xấu hổ cứu cho chuột khỏi chết do axit asenơ rất rõ rệt, nếu uống trước 24 giờ thì xấu hổ vẫn cứu sống chuột khỏi chết vì axit asenơ. Các thí nghiệm đã chứng minh rằng khi dùng axit asenơ thì hàm lượng SH giảm xuống, và khi dùng xấu hổ thì hàm lượng SH tăng lên, hô hấp tế bào cũng tăng lên.
Vị thuốc mắc cỡ – xấu hổ
Hình ảnh cây Mắc cỡ
Tính vị: vị ngọt, se, tính hơi hàn, có ít độc,
Quy kinh: Vào kinh phế
Tác dụng: An thần, dịu cơn đau, long đờm, chống ho, hạ nhiệt, tiêu viêm, lợi tiệu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
- Suy nhược thần kinh, mất ngủ, viêm phế quản; Suy nhược thần kinh ở trẻ em; Viêm kết mạc cấp; viêm gan, viêm ruột non; Sỏi niệu; Phong thấp tê bại; huyết áp cao.
- Dùng ngoài trị chấn thương, viêm mủ da. Dùng tươi giã đắp.
- Rễ cây cũng được dùng uống trị sốt rét, kinh nguyệt khó khăn, hen suyễn, dùng gây nôn. Hạt dùng trị hen suyễn và gây nôn.
Xem thêm: Cây Xấu hổ chữa bệnh xương khớp
Liều dùng
- Ngày dùng 6-12g cành lá khô, sắc uống trước khi đi ngủ.
- Rễ cây thái mỏng, tẩm rượu sao vàng sắc uống, ngày dùng 100-200g.
Bài thuốc có vị mắc cỡ
Suy nhược thần kinh, Mất ngủ: Mắc cỡ 15g, dùng riêng hoặc phối hợp với Cúc bạc đầu 15g. Chua me đất 30g sắc uống hằng ngày vào buổi tối.
Viêm phế quản mạn tính: Mắc cỡ 30g, rễ lá Cẩm 16g sắc uống, chia làm hai lần trong ngày.
Ðau ngang thắt lưng, nhức mỏi gân xương: Rễ Mắc cỡ rang lên, tẩm rượu rồi lại sao vào 20-30g sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với rễ Cúc tần và bưởi bung, mỗi vị 20g, rễ Ðinh lăng và Cam thảo dây, mỗi vị 10g.
Huyết áp cao (đơn thuốc có kinh nghiệm của lương y Ðỗ Văn Tranh): Hà thủ ô 8g, trắc bá diệp 6g. Bông sứ cùi 6g, Câu đằng 6g, Tang ký sinh 8g, Ðỗ trọng 6g, mắc cỡ gai 6g. Lá vông nem 6g, hạt Muồng ngủ 6g, Kiến cò 6g Ðịa long 4g sắc uống. Có thể tán bột, luyện thành viên uống hàng ngày.
Chữa đau nhức xương:
Rễ cây xấu hổ xắt thành từng miếng mỏng, phơi khô. Mỗi ngày lấy 120g đem rang lên, sau đó tẩm rượu 35-40 độ rồi lại rang cho khô. Cho 600ml nước, sắc còn 200-300ml, chia uống 2-3 lần/ngày. Sau 4-5 ngày sẽ thấy kết quả.
Chữa viêm dạ dày mạn tính, mắt hoa, đau đầu, Mất ngủ: Rễ cây xấu hổ 10-15g, sắc với nước uống.
Chữa bệnh Zona: Lá cây xấu hổ giã nát, đắp vào chỗ bị bệnh.
Nước mát gan: Cây xấu hổ khô 40 g sắc nước uống hàng ngày.
Kiêng kỵ:
- Người suy nhược, hàn thì không dùng.
- Người có thai không dùng
Phân biệt cây mắc cỡ (Mimosa pudica L) với cây Mimosa
Nhiều tài liệu đồng nhất giữa cây xấu hổ (Herba Mimosae Pudicae) và Mimosa (Acacia Podalyriaefolia Cunn Mimosaceae) cũng thuộc họ trinh nữ, làm cho nhiều người lầm tưởng cây xấu hổ chính là cây mimosa ở Đà lạt trong bài hát “Mimosa từ đâu em tới” của nhạc Sĩ Trần Kiết Tường, vì vậy chúng tôi đem cây mimosa Đà Lạt trình bày ở đây để mọi người khỏi nhầm lẫn nguy hiểm:
Cây Hoa Mimosa ở Đà Lạt có tên khoa học là Acacia podalyriaefolia Cunn, cây thuộc họ Trinh nữ ( Mimosoideae ), tên tiếng việt là keo lá tròn, cây có nguồn gốc từ Australia, hiện đang được trồng và phát triển tốt tại Đà Lạt.
- Hoa tượng trưng cho tình yêu thầm kín và vẻ đẹp khiêm nhường, biểu trưng cho những tình cảm chân thành và sự cảm thông, thường được trồng làm cây cảnh.
- Mimosa là một loài cây thân gỗ. Cây Mimosa 10 năm tuổi có thể tạo nên một tán lá, rộng cả 10 m.
- Mỗi cành Mimosa đều chi chít những nhánh nhỏ, lá kép hình ô-van, dài khoảng 2cm, mặt dưới của lá có mầu trắng bạc như phủ một lớp phấn trắng…
- Vào mùa mưa, những cây Mimosa đến mùa sung mãn, cây nào cũng cành lá sum suê. Đến tháng 11, khi mùa mưa cao nguyên ngớt dần, hoa đã lấm tấm đầy cành, rồi nở rộ cho đến hết mùa xuân.