Mô tả cây
Cây nhỏ leo, cao 2 – 4m, nhẵn khắp mọi phần. Cành gần hình trụ, đôi khi hơi đỏ, màu nhạt hay xanh nước biển, to bằng ống lông ngỗng.
- Thân cây có khía. Tua cuốn đơn, hình sợi chỉ.
- Lá đơn, 5 – 7 thùy chân vịt, hình tim ở gốc nhưng hẹp dần trên cuống, những cái trên gần nguyên, hình mũi mác; răng rất nhỏ, nom như những cái lông, hướng về ngọn, 5 – 7 gân gốc, tạo thành gân giữa của mỗi thùy; mỗi cái mang 8 – 10 đôi gân bên, tất cả hơi trắng ở mặt dưới; gân con không rõ rệt, thành mạng lưới nhỏ; cuống lá dày ở phía gốc; lá kèm thuôn, hình tim ở gốc, tù ở ngọn, thắt lại ở quãng giữa, rụng khá sớm.
- Cụm hoa đối diện với các lá thành ngù, ngắn hơn các lá, có cuống; lá bắc thuôn; giống như lá kèm, rụng rất sớm; cuống hoa nhẵn; nụ hoa hình trứng. Đài hình chén, rất nhẵn, 4 cánh hoa màu hơi vàng, dài 2mm, 4 nhị; chỉ nhị bằng đầu nhụy; bao phấn tròn; trung đới không có bướu ở mặt trong. Đĩa dày, khía tai bèo, có 4 thùy ngăn cách nhau bởi những rãnh. Bầu nhẵn; noãn kết liễu bởi một phần phụ hình sợi chỉ thuộc về lỗ noãn, rất dài và cong queo.
- Quả nang tròn, 5 – 6mm, khi chín màu đen.
- Ra hoa tháng 4 – 8, có quả tháng 5 – 10.
Phân bố, thu hái và chế biến
Phân bố ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Ở nước ta, có gặp từ Lào Cai, Thái Nguyên, Ninh Bình vào Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Ninh Thuận và thành phố Hồ Chí Minh.
Cây mọc hoang ở rừng thưa, ven suối, rừng ẩm có ánh sáng. Cũng gặp ở bờ bụi, hàng rào. Chìa vôi cũng được trồng ở nhiều nơi vùng đồng bằng.
Thành phần hóa học
- Trong thành phần của cây chìa vôi có chứa hợp chất saponin, phenolic, acid amin và acid hữu cơ.
- Ngọn và lá có glucid 5,4%, protid 1,4%, xơ 1,1%, caroten 1,5 mg%, vitamin C 45mg%, tro 0,8%. Đây là những chất thiết yếu để hỗ trợ trị những bệnh về xương khớp và cả bệnh thoát vị đĩa đệm.
Vị thuốc Chìa vôi
Tính vị: Vị đắng nhẹ, chua, tính mát.
Công dụng: Thanh nhiệt giải độc, tán kết, hành huyết.
Bài thuốc có vị Chìa vôi
Chữa phong thấp, cơ xương đau nhức: Dây chìa vôi 20g, dây đau xương 15g, cây lá lốt (nhổ liền cả rễ) 15g; sao vàng, hạ thổ, sắc nước uống trong ngày.
Chữa bong gân, chấn thương sưng nề, tụ máu: Lá chìa vôi, lá thầu dầu tía – 2 thứ bằng nhau; giã nát, trộn với giấm hoặc rượu, sao nóng, đắp và bó vào chỗ chấn thương, ngày thay thuốc 1-2 lần.
Ung nhọt sưng tấy, viêm lở da: Dùng lá chìa vôi tươi, giã đắp; kết hợp với uống thuốc tiêu độc: thổ phục linh 20g, kim ngân hoa 10g, bồ công anh 10g; sắc nước uống trong ngày.
Mụn ổ gà ở nách (viêm nang lông kèm theo viêm tuyến hôi): Dùng lá chìa vôi tươi, giã nát cùng với lòng trắng trứng gà; đắp lên nhọt, dùng băng cố định lại, ngày thay thuốc 1 lần.
Chai chân mắt cá: Lá chìa vôi tươi giã nát cùng với 1/3 râu tôm sống; đắp vào chỗ bị bệnh, dùng băng cố định, ngày thay thuốc 1 lần.
Rắn rết cắn: Giã lá chìa vôi tươi với muối, nhai nuốt dần nước, bã đắp lên vết thương.
Thoát vị đĩa đệm: Dây chìa vôi 40g, lá lốt 20g, cỏ xước 20g, cây tầm gửi 20g, cây dền gai 20g sắc với 1,5lit nước dùng uống hằng ngày.
Đau nhức xương: Chìa vôi 20g, rễ lá lốt 15g, nước 500ml, sắc còn 250ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Thoái hóa cột sống: Dây chìa vôi 50g, Đương quy 20g, xuyên khung 10g, ngưu tất 40g, cẩu tích 20g. Tất cả các vị thuốc ngâm trong 1 lít rượu trắng sau 1 tuần là dùng được, mỗi ngày uống, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 chén nhỏ (khoảng 20ml).