1. Mô tả:
- Bách thảo sương là muội đen cạo ở đáy nồi. Muội nồi do rơm rạ, các cây cỏ đốt cháy thành khói lâu ngày hợp thành. Được muội nồi cạo ở nồi đất thổi cơm là tốt nhất.
- Muội nồi đen nhánh không lẫn tạp chất là tốt.
- Cẩn thận:không nhầm với bồ hóng (ô long vĩ) đen, nâu, không nhánh, không mịn.
2. Cách bào chế:
- Theo Trung Y: Sàng bỏ tạp chất, thuỷ phi, dùng vào thuốc thang, cho vào túi vải mà sắc, dùng làm thuốc hoàn tán thì phối hợp vào các thuốc mà tán bột.
- Theo kinh nghiệm Việt Nam: Khi lấy, chú ý cho sạch sẽ tránh lẫn tạp chất, tán nhỏ, rây mịn.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, đậy kín.
3. Vị thuốc Bách thảo sương
Tính vị: Vị cay, tính ôn.
Quy kinh: Vào kinh Tâm và Phế.
Tác dụng: Chỉ huyết, tiêu ích, giải độc.
Chủ trị: Thổ huyết, nục huyết, băng huyết, bạch đới, tích trệ, tiêu chảy, Kiết lỵ, đau yết hầu, lở miệng lưỡi.
4. Liều dùng:
- Ngày dùng 6 – 12g.
Bài thuốc có vị Bách thảo sương
Trị chảy máu cam không cầm: Dùng bột Bách thảo sương thổi vào mũi
Trị mửa ra máu do uống nhiều rượu, ho ra máu: Bách thảo sương uống với nước gạo nếp, mỗi lần 6g. Có bài khác dùng Bách thảo sương 15g, Hoa hoè tán bột 60g, tán bột, mỗi lần uống 6g với nước rễ tranh (Lưu Trường Xuân Kinh Nghiệm Phương).
Trị chân răng chảy máu: Bách thảo sương xát vào (Tập Giản Phương).
Trị rong kinh: Bách thảo sương 6g, trộn mật chó uống 2 lần với rượu Đương quy (Kinh Nghiệm Phương).
Trị thai động ra máu hoặc thai chết lưu: Bách thảo sương 6g, Tông lư hôi 3g, Phục long can 15g, tán bột, mỗi lần uống 3-6g với nước hay rượu trộn nước tiểu trẻ con (Bút Phong Tạp Hứng).
Trị bạch đới: Bách thảo sương 30g, tán bột, mỗi lần dùng 9g, lấy một miếng gan heo cắt ra, bỏ thuốc vào trong gan gói lại, nướng, ăn với rượu nóng (Vĩnh Loại Kiềm Phương)
Trị ra máu: Bách thảo sương 15g, trộn với nước cơm, phơi sương, uống lúc bụng đói (Thiệu Chân Nhân Kinh Nghiệm Phương).
Trị lỵ thời kỳ đầu: Bách thảo sương 9g, Kim mặc 3g, Bán hạ 2,1g, Ba đậu 14 trái nghiền ép bỏ dầu đi, tán bột, trộn với 9g Hoàng lạp và dầu vừng làm viên, to bằng hạt đậu xanh, mỗi lần 3-5 viên với nước gừng ( ‘Thiết Loát Hoàn’ – Tiềm Giang Phương).
Trị trẻ nhỏ bị lỵ do tích trệ: Bách thảo sương 2 chỉ, Ba đậu nướng khử dầu 1 chỉ tán bột lấy miến làm hồ viên bằng hạt đậu xanh lần 3-5 viên, nếu xích lỵ uống với nước Cam thảo. Bạch lỵ uống với nước cơm, lỵ trắng hồng uống với nước gừng (Trú Xa Hoàn – Toàn Ấu Tâm Giám).
Trị lỵ ra máu mũi có kèm nhiệt: Bách thảo sương, Hoàng liên đều 30g, tán bột, mỗi lần uống 6g với rượu, ngày 2 lần (Thánh Huệ Phương).
Trị ngủ có cảm giác như bị cây đè có khi bất tỉnh đột ngột: Bách thảo sương 6g, trộn nước cho uống, đồng thời thổi bột vào mũi (Thiên Kim Phương).
Trị ngất, chân tay lạnh: Bách thảo sương trộn nước cho uống, chamn thêm huyệt Bá hội, Đại đôn (Thiên Kim Phương).
Trị hói tóc, rụng tóc, lở da đầu: Thảo sương trộn mỡ heo bôi vào (Tiện Giản Phương).
Trị lở mũi, lở thúi mũi: Bách thảo sương 6g, uống với nước lạnh (Tam Nhân Phương)
Trị các loại trên đầu lở loét: Bách thảo sương trộn với ít Khinh phấn và dầu mè bôi vào, sau khi rửa sạch đầu bằng giấm (Chúng Loại Bản Thảo).
Trị chảy nước vàng ở bàn tay bàn chân có lấm tấm như hạt gạo, gọi là Điếu thử: Bách thảo sương, nấu sôi 3 bát nước ngày rửa 3-4 lần (Ngoại Đài Bí Yếu).
Kiêng ky:
- Không có ứ trệ kiêng dùng.