Mục lục
Mô tả cây
Cây vòi voi là một loại cỏ cao từ 0,20-0,40m, thân khỏe, cứng, mang nhiều cành, trên thân và cành đều có lông. Lá hình trứng dài, phía cuống tròn và hơi hẹp lại, phía đầu tù, phiến lá dài 5- 9cm, rộng 3-5cm, cả hai mặt đều nhiều lông, mép có răng cưa không đều, cuống lá có dìa nhất là phía trên, dài 3-7cm. Hoa tím nhạt hoặc trắng, không cuống, so le, nhung liền nhau trên 2 hàng tạo thành cụm hoa xim bọ cạp ở đầu cành hay kẽ lá. Quả gồm 4 hạch nhỏ, trên đỉnh dính vào nhau, phía dưới xa nhau cao 4mm, càng lên phía trên càng hẹp lại, khi chín thì tách ra.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam: Tại những bãi hoang, ruộng bỏ không, quanh làng.
- Còn mọc ở nhiều nước khác vùng Á Đông, Ân Độ, Cãmpuchia, Lào, Philippin.
- Người ta dùng toàn cây, hái về phơi khô hoặc dùng tươi.
Tác dụng dược lý
- Cây vòi voi có hai tác dụng chủ yếu:
1. Trong 2 năm 1961-1962, bệnh viện Hải Dương đã dùng cao rượu vòi voi điều trị cho 856 bệnh nhân bị bong gân, tụ huyết, bầm sưng do sang chấn, viêm, viêm tấy, áp xe, chín mé, viêm hạch v.v… đã đi tới một số kết luận sau đây:
- Cao rượu vòi voi có tác dụng rất tốt đối với những trường hợp viêm hay cương tụ huyết chưa làm mủ: Chỉ cần đắp cao rượu vòi voi trong 3-4 ngày, đắp ướt liên tục.
- Nếu đã có mủ rồi, cao rượu vòi voi không có tác dụng làm tan mủ, nhưng cũng làm cho mủ không lan rộng hơn và làm bớt sưng tấy ở những vùng xung quanh ổ mủ.
- Sau khi trích mủ, nếu băng bằng cao rượu vòi voi, vết thương chóng lành và đỡ đau hơn là băng thường.
- Cao rượu vòi voi đắp lên chỗ sưng làm dịu đau ngay, bệnh nhân thấy có cảm giác mát dịu, dễ chịu, không nhức nhối như khi chưa đắp thuốc (y học thực hành, 1/1963)
Chữa sưng đầu gối với những triệu chứng sau đây: Trước phát bệnh mỏi đầu gối, 3 hôm sau, vùng đầu gối đỏ và sung to lên, người lên cơn sốt nhẹ, không đi lại được. Dùng cây tươi, chặt thành từng đoạn nhỏ, giã cho dập, bỏ vào nồi sao với dấm hoặc với rượu, gói vào miếng vải, buộc vào chỗ sưng. Làm như vậy trong một năm (Y học tạp chí đông y, 1961, số 11).
Vị thuốc vòi voi
Hình ảnh cây vòi voi
Tính vị, tác dụng: Vị đắng, nhạt, hơi cay, mùi hăng, tính bình; có tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, tiêu thũng, giải độc.
Quy kinh: Vào kinh tỳ, thận, đại tràng
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
- Trị Phong thấp sưng khớp, lưng gối nhức mỏi.
- Loét cổ họng bạch cầu.
- Viêm phổi, viêm mủ màng phổi.
- Ỉa chảy, lỵ.
- Viêm tinh hoàn, nhọt sưng tấy và viêm mủ da.
Liều dùng
- Dùng 15-30g dạng thuốc sắc.
- Dùng ngoài lấy cây tươi giã nát đắp trị mẩn ngứa, nhiễm khuẩn, rắn cắn.
Bài thuốc có vị vòi voi
Viêm phổi, viêm mủ màng phổi: Dùng 60g cây tươi, đun sôi trong nước và uống với mật ong. Hoặc giã 60-120g cây tươi lấy dịch và uống với mật.
Sưng amydal: Dùng lá tươi nghiền ra lấy dịch súc miệng ngày 4-6 lần.
Chữa phong thấp nhức mỏi tê bại, đau các khớp xương, bán thân bất toại: Vòi voi khô 300g, rễ Nhàu rừng 200g, củ Bồ bồ 150g. Cỏ mục 100g. Các vị hiệp chung tán nhuyễn vò ra viên bằng hạt tiêu, mỗi lần uống 20-30 viên. Ngày 2-3 lần (Kinh nghiện ở An Giang).
Kiêng kỵ:
- Người già yếu cơ thể suy nhược, tỳ vị hư hàn, ỉa chảy lâu ngày hay chân lạnh, không nên dùng.
Lưu ý:
Người ta phát hiện một số loài vòi voi như H.lariocarpum Fish et Mey chứa ancaloid có nhân pyrolizidinn rất độc đối với gan và gây hủy hoại tổ chức gan, đau bụng tiêu chảy, xuất huyết lan tỏa và có thể gây ung thư. Tính độc này thường không thể hiện ngay khi dùng, mà thường xuất hiện một cách âm ỉ, kéo dài, khó phát hiện.
Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo không nên dùng vòi voi làm thuốc và Bộ Y tế Việt Nam (năm 1985) cũng đã có chỉ thị cần thận trọng khi dùng vòi voi chữa bệnh, mặc dù chỉ dùng ngoài để đắp theo kinh nghiệm cổ truyền: trong các trường hợp tụ huyết bầm tím do chấn thương, viêm tấy áp-xe, sưng vù, sưng khớp, đinh nhọt giai đoạn chưa có mủ.
Từ những thông tin trên, lời khuyên với mọi người dù là thuốc từ cây lá cũng phải có chỉ định thận trọng của thầy thuốc.