Mục lục
Mô tả
- Cây sống hằng năm, có thể cao tới 70-80cm, có nhiều cành.
- Lá hình mác, có cuống ngắn, dài 4-6cm, rộng 10-13mm, những lá trên nhỏ và hẹp hơn, bẹ chìa mỏng và phát triển.
- Hoa đỏ mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá, bao hoa 4, nhị 6.
Phân bố
Cây mọc hoang khắp nơi trong nước ta, đặc biệt ở những nơi ẩm thấp, khi cây ra hoa hái toàn cây về phơi chỗ mát.
Thành phần hóa học
Trong cây nghể có chứa các chất oxymetylanthraquinon và 2-2,5% dẫn xuất flavon: ramnazin, isoramnetin và rutin, axit polygonic, hyperin, chất pecsicarin, chất pecsicarin-7-metyleste.
Tác dụng dược lý
Theo nghiên cứu của Liên xô cũ (Gindech p. I. và F. V. Ivanôv, 1951) thì trong cây nghể có chất polygopiperin có tác dụng giúp sự co bóp tử cung, vitamin K và dẫn xuất flavon rutin có tác dụng giảm sự thấm và tăng sức chịu đựng của mao mạch.
Vị thuốc Cây nghể
Hình ảnh cây nghể
Tính vị: Toàn cây có vị cay nóng, thơm. Khi khô vị sẽ mất đi.
Công dụng và liều dùng
- Nghể dưới hình thức cao lỏng có tác dụng cầm máu, dùng trong trường hợp băng huyết trong sản khoa, liều dùng cao lỏng 30-40 giọt, ngày uống 3-4 lần.
- Tác dụng làm thuốc chữa giun nhuận tràng, thông tiểu, chữa rắn cắn.
Bài thuốc có vị Cây nghể
Chữa rắn cắn:
Nghể 25 ngọn, lá phèn đen 25 lá, thuốc lào một điếu (viên tròn bằng hạt ngô), hồng hoàng một cục bằng hạt đậu xanh. Cả 4 vị giã nhỏ. Thêm một bát nước đun sôi để nguội, lọc lấy nước, cho vài hạt muối vào rồi uống.
- Chia làm 3 lần trong ngày. Bã đắp vào nơi rắn cấn.
- Thời gian điều trị chừng 3 ngày (kinh nghiệm nhân dân).