Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Mon, 22 Apr 2024 02:09:34 +0700 vi hourly 1 Sương sáo https://tracuuduoclieu.vn/suong-sao.html https://tracuuduoclieu.vn/suong-sao.html#respond Thu, 10 Feb 2022 08:36:41 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=64359 Sương sáo 1

Hình ảnh cây Thạch đen

Mô tả

  • Cây có dạng thân thảo, sống hàng năm, cao từ 40-60cm, ít phân nhánh, cành và thân cây có lông.
  • Lá mọc đối, nguyên, dày, hình trứng hoặc hình thuôn dài dạng trứng, thon hẹp ở gốc, nhọn ở chóp, dài 2-4 (6)cm, rộng 1-1,5cm, mép có răng; cuống dài 0,8-2cm.
  • Cụm hoa xim ở ngọn cành, dài tới 10 (13)cm, có lá bắc màu hồng ở gốc, hoa có cuống dài, có lông. Đài có lông, 3 răng ở môi trên, tràng có màu trắng hay hồng nhạt, môi trên 3 thuỳ, môi dưới to; bộ nhị thò, chỉ nhị màu tím.
  • Quả bế nhẵn, thuôn, dài 0,7mm.

Phân bố

Cây mọc hoang dại và được trồng ở vùng An Giang để làm thuốc và nấu thạch đen dùng uống cho mát.

  • Thu hái toàn cây trừ bỏ rễ.
  • Mùa thu hoạch gần như quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa mưa.

Thành phần hóa học

Chứa nhiều hợp chất polyphenol, tanin và pectin

Tính vị, công năng

Theo y học cổ truyền sương sáo có tính mát, có tác dụng hạ huyết áp, trị cảm mạo, đau khớp.

Công dụng và liều lượng

Nhân dân miền Nam hay dùng thân và lá xương sáo nấu thạch đen ăn cho mát, cách chế như sau: Thân lá xương sáo xay thành bột, thêm nước vào nấu kỹ, lọc lấy nước. Thêm ít bột sắn hay bột gạo vào, nấu cho sôi lại, để nguội được một thứ keo đặc nhưng mềm, màu đen gọi là lương phấn. Khi ăn người ta thái miếng thạch đen cho vào nước đường và nhỏ nước thơm.

  • Ngày dùng 15-20g dưới dạng thuốc sắc.

Theo y học hiện đại, sương sáo có tác dụng có lợi cho sức khỏe như tác dụng chống oxy hóa in vitro, giảm cholesterol máu, ngăn ngừa biến chứng tiểu đường, tác dụng hạ đường huyết, hỗ trợ giảm cân.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/suong-sao.html/feed 0
Giảo cổ lam https://tracuuduoclieu.vn/giao-co-lam.html https://tracuuduoclieu.vn/giao-co-lam.html#respond Thu, 02 Dec 2021 03:52:25 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=29705 Giảo cổ lam 1

Hình 1: Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum)

Mô tả cây

  • Giảo cổ lam là cây thảo mọc leo, sống hằng năm. Thân mảnh, hơi có rãnh, nhẵn. Tua cuốn chẻ đôi ở đầu.
  • Lá kép mọc so le, gồm 3-7 lá chét hình bầu dục-thuôn hoặc mũi mác, dài 3-9cm, rộng 1,5-3cm, gốc thuôn hẹp, đầu nhọn, mép khía răng, hai mặt có lông, ít khi nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới rất nhạt, có cuống dài 3-7cm.
  • Hoa đơn tính khác gốc, mọc ở kẽ lá và đầu ngọn thành chùy buông chõng có thể dài đến 30cm (ở cụm hoa cái ngắn hơn); hoa nhỏ, hình sao, bao hoa rất ngắn, to hơn hoa cái; lá đài hình tam giác nhọn; cánh hoa hình mác rời nhau; nhị 5,bao phấn dính nhau; bầu có 3 vòi nhụy.
  • Quả mọng, nạc, hình cầu, đường kính 5-9mm, nhẵn, khi chín màu đen, hạt 2-3, gần hình ba cạnh, hơi dẹt, đường kính 4mm.
  • Mùa hoa: tháng 7-8, mùa quả tháng 9-10.

Phân bố

Loài cây này mọc nhiều ở độ cao trên dưới 2000m so với mặt nước biển, trong các khu rừng thưa, ẩm thấp, khí hậu lạnh quanh năm bao gồm: Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Nam Trung Quốc, các tỉnh vùng núi phía Bắc của Việt Nam.

Riêng tại Việt Nam, khi tiến hành cuộc khảo sát dược liệu tại Fansipan, các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện một quần thể rộng lớn cây Giảo cổ lam mọc hoang ở độ cao 1500m thuộc dãy Hoàng Liên Sơn.

Theo thông tin thu thập được, người dân nơi đây đã dùng cây này từ nhiều đời nay nhằm tăng lực, chống mệt mỏi khi đi rừng, tăng cường sức khỏe. Mẫu cây này sau đó được gửi đến Viện Dược liệu Trung ương và đến các phòng nghiên cứu thực vật lớn trên thế giới và xác định đúng là cây Gynostemma pentaphyllum. Qua nghiên cứu cho thấy, giảo cổ lam Việt Nam có chất lượng tương đương với giảo cổ lam của Nhật Bản và Trung Quốc.

Đặc biệt, tại Việt Nam có công ty TNHH Tuệ Linh đã phát triển thành công 1 vùng trồng Giảo cổ lam 5 lá quý hiếm (Ngũ diệp sâm) rộng 5 ha đạt chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái của Tổ chức Y tế thế giới (GACP – WHO) tại Mộc Châu. Được biết, đây chính là giảo cổ lam mà các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc đặc biệt ưa chuộng. Kể từ khi phát hiện ra Giảo cổ lam vào năm 1997, GS.TS Phạm Thanh Kỳ (Thầy thuốc nhân dân, nguyên hiệu trưởng ĐH Dược Hà Nội) đã đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước.

Cho đến nay, GS.TS Phạm Thanh Kỳ cùng với các nhà khoa học Viện dược liệu, Bộ môn Dược lý Trường đại học Y Hà Nội và công ty TNHH Tuệ Linh đã phối hợp nghiên cứu làm rõ tác dụng hạ đường huyết, mỡ máu và huyết áp của cây thuốc quý này. Để mua đúng loại giảo cổ lam 5 lá này, các bạn có thể liên hệ với công ty TNHH theo số hotline của công ty là 18001190.

Phân bố 1

Hình 2: Vùng trồng Giảo cổ lam 5 lá (Ngũ diệp sâm) lớn nhất Việt Nam đạt chuẩn GACP-WHO tại Mộc Châu

Bộ phận dùng

Toàn cây

Thành phần hóa học

Thành phần hoạt chất chính của Giảo cổ lam: Saponin, flavonoid, polysaccharid.

Saponin: Trong GCL có chứa hơn 100 loại saponin cấu trúc triterpenoid kiểu Dammaran (gồm 4 vòng và một mạch nhánh), gọi chung là các gypenosids, trong đó có 4 saponin có giống cấu trúc giống hệt saponin trong nhân sâm, 11 saponin có cấu trúc tương tự như saponin trong nhân sâm. Ngoài ra, giảo cổ lam còn chứa các acid amin tan trong nước, các vitamin, nhiều nguyên tố vi lượng như kẽm, sắt, selen và rất giàu canxi hữu cơ.

Tính vị

Giảo cổ lam vị rất giống nhân sâm, trước đắng sau ngọt (tiền khổ hậu cam cam).

Công dụng và các nghiên cứu khoa học về Giảo cổ lam

Giảo cổ lam là một trong những cây dược liệu cổ quý hiếm được biết đến với rất nhiều tác dụng trong y học. Dược liệu này đã được sử dụng từ rất lâu đời ở các nước như Nhật Bản, Ấn Độ, Indonesia, Triều Tiên, đặc biệt là Trung Quốc.

Ở Trung Quốc, Giảo cổ lam đã được các vua chúa Trung Quốc sử dụng từ xa xưa để tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ và làm đẹp. Cây này được hoàng đế Tần Thủy Hoàng ưa dùng với mong muốn trường sinh bất lão, do vậy giảo cổ lam còn được gọi là cỏ trường thọ.

Ở Nhật Bản, năm 1976, các nhà khoa học tình cờ phát hiện ra Giảo cổ lam khi nghiên cứu một bộ lạc sống trên vùng núi cao có tuổi thọ bình quân xấp xỉ 100 tuổi. Nguyên nhân là do người dân nơi đây đã dùng giảo cổ lam, chế biến thành trà uống hàng ngày, để tăng cường sức khỏe. Người dân Nhật Bản gọi giảo cổ lam với cái tên Phúc Âm Thảo.

Giảo cổ lam đã được ghi trong sách cổ “Nông chính toàn thư hạch chú”, quyển Hạ năm 1694 và trong cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” với những công dụng sau:

  • Ba chống: Chống u, chống lão hóa, chống mệt mỏi
  • Ba giảm: Giảm béo, giảm căng thẳng, giảm nám sạm da
  • Năm tốt: Ăn ngủ tốt, tiêu hóa tốt, da dẻ tốt, sức khỏe tốt và giúp tỉnh táo.

Ngày nay, trải qua nhiều năm nghiên cứu, các nhà khoa học đã chứng minh được công dụng của giảo cổ lam với sức khỏe con người.

Giảo cổ lam giúp hạ đường huyết, hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường tuýp II

  • Các chất trong Giảo cổ lam có tác dụng ổn định đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2. Năm 2004, Viện dược liệu Trung ương kết hợp với viện nghiên cứu Karolinska, Thụy Điển đã tìm ra một hoạt chất mới từ cây Giảo cổ lam, có tác dụng kích thích tạo insulin. Các nhà khoa học đã chứng minh được hoạt chất này là một saponin mới và được đặt tên là Phanoside (lấy tên nhà khoa học Việt Nam Đào Văn Phan, trưởng nhóm nghiên cứu). Khi sử dụng trên chuột người ta thấy rằng Phanoside đáp ứng với từng nồng độ glucose khác nhau. Điều thú vị là độ nhạy cảm của tế bào đảo tụy với Phanoside khi nồng độ glucose cao tốt hơn khi ở nồng độ thấp. Điều này có nghĩa là Giảo cổ lam hầu như không có tác dụng hạ đường huyết khi nồng độ đường trong máu ở ngưỡng giới hạn bình thường mà chỉ làm giảm đường huyết trên đối tượng có nồng độ đường huyết cao.
  • Từ thành công ban đầu tìm ra phanoside năm 2007, các tác giả này đã tìm ra cơ chế kiểm soát đường huyết của phanoside là do khả năng kích thích tiết insulin từ đảo tụy. Và đến năm 2010, một cuộc thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 đã được thực hiện. Kết quả cho thấy, sau khi sử dụng trà Giảo cổ lam với mức liều 6g/ngày, sau 4 tuần thì nồng độ đường trong máu giảm 3 mmol/l so với trước khi sử dụng, đồng thời Giảo cổ lam còn giúp cải thiện tình trạng rối loạn mỡ máu của bệnh nhân tiểu đường.
  • Một nghiên cứu lâm sàng khác năm 2011 do TS. Vũ Thị Thanh Huyền, bộ môn Dược lý, trường Đại học Y Hà Nội phối hợp với Hội đái tháo đường Thụy Điển thực hiện trên 65 bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 tại bệnh viện Lão Khoa Trung ương có chỉ số đường huyết lúc đói trong khoảng từ 9 đến 14 mmol/l, sử dụng trà Giảo cổ lam với mức liều 6g/ngày (tương đương 3 gói trà Giảo cổ lam Tuệ Linh 2g dạng túi lọc), trong thời gian 12 tuần. Kết quả cho thấy, sau 12 tuần sử dụng trà Giảo cổ lam, đường huyết giảm 3 mmol/l so với nhóm đối chứng không sử dụng Giảo cổ lam. Nghiên cứu cũng nhận thấy nếu sử dụng một thuốc hạ đường huyết gliclazide trong 4 tuần sau đó chuyển sang sử dụng trà Giảo cổ lam trong 8 tuần cũng giúp làm giảm đường huyết lúc đói là 2,9 mmol/l so với nhóm chỉ sử dụng gliclazide đơn thuần trong 4 tuần đầu. Đồng thời nghiên cứu của TS. Vũ Thị Thanh Huyền cũng nhận thấy sử dụng trà Giảo cổ lam làm tăng mức độ nhạy cảm của tế bào với insulin, khả năng sử dụng glucose của tế bào, do đó giúp ổn định nồng độ đường trong máu.

Như vậy, tác dụng hạ đường huyết của giảo cổ lam dựa trên các cơ chế:

  • Kích thích tế bào beta đảo tụy tăng tiết insulin.
  • Giảm tính kháng của tế bào đối với insulin
  • Giảm tổng hợp glucose ở gan

Giảo cổ lam giúp hạ mỡ máu, ngăn ngừa xơ vữa động mạch

Giảo cổ lam làm hạ mỡ máu, giảm cholesterol toàn phần, triglyceride và tăng hoạt tính của enzyme lipoprotein lipase làm tăng thoái giáng lipid trong máu, do đó ngăn ngừa nguy cơ xơ vữa mạch máu, chống huyết khối.

  • Những đánh giá bước đầu về tác dụng làm giảm cholesterol máu đã được tác giả Phạm Thanh Kỳ công bố trên tạp chí Dược liệu vào năm 1999 khi tiến hành thử nghiệm trên mô hình chuột gây rối loạn mỡ máu bằng chế độ ăn giàu lipid cho thấy: uống Giảo cổ lam trong 30 ngày làm giảm cholesterol toàn phần 71% so với nhóm không sử dụng dược liệu này. Kết quả này là cơ sở khoa học khẳng định tác dụng làm giảm mỡ máu của Giảo cổ lam.
  • Một nghiên cứu khác của tác giả Samer Megalli, trường Đại học Sydney, Úc công bố năm 2005 cũng khẳng định tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần trong máu, triglycerid, LDL (một loại cholesterol xấu trong máu, loại cholesterol này làm tăng nguy cơ xuất hiện các mảng xơ vữa động mạch và các bệnh tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ…) trên mô hình động vật thí nghiệm. Theo kết quả của nghiên cứu này thì sử dụng Giảo cổ lam làm giảm lượng triglycerid trong máu 85%, cholesterol toàn phần 44% và giảm lượng LDL 35%, tác dụng này gần như tương đương với atorvastatin, là thuốc được ưu tiên lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân rối loạn mỡ máu hiện nay.

Tác dụng trên tim mạch, huyết áp

  • Tác dụng trên huyết áp:
  • Các nhà khoa học tại Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt (Mỹ) đã chứng minh rằng: uống Giảo cổ lam sẽ kích thích cơ thể sản xuất ra oxit nitric, chất này thúc đẩy quá trình lưu thông máu và có vai trò tích cực trong việc kiểm soát huyết áp, phòng ngừa các biến chứng tim mạch.
  • Các nhà khoa học đã thử nghiệm lâm sàng trên 223 bệnh nhân được chia thành ba nhóm: Nhóm 1 dùng nhân sâm, nhóm 2 dùng giảo cổ lam và nhóm 3 dùng thuốc huyết áp Indapamide. Kết quả thu được, nhân sâm chỉ giảm chỉ số huyết áp 46%, Giảo cổ lam là 82% và thuốc Indapamide là 93%. Như vậy, sử dụng Giảo cổ lam có ý nghĩa rõ ràng trong hỗ trợ điều trị bệnh tăng huyết áp.
  • Gần đây, GS.TSKH. Trần Văn Sung (nguyên Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) còn phát hiện ra hoạt chất Adenosin trong giảo cổ lam 5 lá. Adenosin rất tốt cho những người tim mạch (làm giảm rõ rệt những cơn đau tim), bởi adenosin có khả năng tạo năng lượng rất mạnh, tăng khả năng chịu đựng của cơ tim, kích hoạt giấc ngủ sinh lý, giúp dễ ngủ.

Tác dụng chống khối u

  • Năm 2011, Tạp chí Dược học số 5/2011 đã đăng tải nghiên cứu của GS.TS Phạm Thanh Kỳ và PGS.TS Trần Lưu Vân Hiền (Viện Y học cổ truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm) chứng minh chiết xuất Giảo cổ lam có tác dụng ngăn ngừa và kìm hãm sự phát triển khối u một cách rõ rệt.
  • Năm 2012, GS.TS Phạm Thanh Kỳ tiếp tục phối hợp với các cộng sự Hàn Quốc, đã tìm thấy 7 hoạt chất saponin mới trong cây Giảo cổ lam Việt Nam và đặt tên là gypenoisd VN 01-07. Các chất này được chứng minh có khả năng tiêu diệt mạnh các tế bào ung thư bạch cầu, phổi, đại tràng, vú và tử cung.

Giảo cổ lam làm tăng đáp ứng miễn dịch

  • Giảo cổ lam giúp tăng cường sinh lực do có các saponin có cấu trúc giống saponin trong nhân sâm giúp cơ thể cân bằng tối ưu bằng cách cân bằng hormon nội tiết, hệ miễn dịch, hệ thần kinh và các chức năng sinh học khác.
  • Giảo cổ lam có tác dụng tăng đáp ứng miễn dịch trên chuột ở cả 2 mô hình gây ức chế miễn dịch bằng Cyclophosphamid và tia xạ với liều thí nghiệm (3,4mg cao đặc/20g chuột/ngày).

Cụ thể, saponin toàn phần trong GCL:

  • Có tác động rõ rệt lên sự ức chế miễn dịch gây ra bởi Cyclophosphamide khi thử nghiệm trên động vật, dẫn đến sự phục hồi ở chuột được dùng Cyclophosphamide về phương diện khối lượng các cơ quan miễn dịch, hàm lượng chất tan huyết và sự tăng rõ rệt hoạt tính của tế bào NK, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm đối chứng dùng Cyclophosphamide (p < 0,005-0,01).
  • Có tác động điều hòa miễn dịch 2 chiều trên chuột khỏe mạnh bình thường, phục hồi các chỉ số miễn dịch từ cao hơn hoặc thấp hơn trị số trung bình về trị số bình thường, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm chứng dùng Cyclophosphamide.
  • Có tác dụng ngăn chặn mệt mỏi, giúp cơ thể chịu đựng được tình trạng thiếu oxy dưới áp suất khí quyển bình thường.

Một số sản phẩm có thành phần Giảo cổ lam trên thị trường hiện nay

Trà Giảo cổ lam Tuệ Linh

Công dụng:

♦ Giúp giảm mỡ máu, giảm cholesterol toàn phần, ngăn ngừa xơ vữa mạch máu, ổn định huyết áp và giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

♦ Giúp giảm đường huyết và phòng ngừa các biến chứng của bệnh tiểu đường.

Giảo cổ lam làm tăng đáp ứng miễn dịch 1

Hình ảnh sản phẩm Trà giảo cổ lam và Viên uống giảo cổ lam

Cao khô Giảo cổ lam

♦ Cao Giảo cố lam Tuệ Linh với thành phần 100% cao khô dược liệu nguyên chất.

♦ Dược liệu được sản xuất trên dây chuyền hiện đại đảm bảo chất lượng và hàm lượng hoạt chất cao nhất.

♦ Đối tượng sử dụng: Người mỡ máu, huyết áp cao, mắc bệnh tim mạch; mắc bệnh tiểu đường tuýp 2; thường xuyên mệt mỏi, căng thẳng, khó ngủ.

Giảo cổ lam làm tăng đáp ứng miễn dịch 2

Hình ảnh sản phẩm Cao khô giảo cổ lam

Trên đây là một số thông tin về hình ảnh, liều lượng công dụng của cây Giảo cổ lam. Nếu cần tư vấn và tìm hiểu thêm về cây Giảo cổ lam và các loại cây dược liệu khác bạn có thể liên hệ qua số tổng đài tư vấn 1800.1190 (miễn phí tư vấn) hoặc đặt câu hỏi của bạn ở mục ý kiến ở cuối bài viết, Tra cứu dược liệu sẽ giải đáp những thắc giúp bạn có thêm những thông tin đáng tin cậy.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/giao-co-lam.html/feed 0
Xạ đen https://tracuuduoclieu.vn/duoc-lieu-xa-den.html https://tracuuduoclieu.vn/duoc-lieu-xa-den.html#respond Mon, 08 Jul 2019 06:57:57 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=42018 1. Thông tin khoa học

  • Tên khoa học: Celastrus hindsii Benth et Hook
  • Tên khác: Xạ đen, Xạ đen châu Âu, Cây dây gối Ấn độ, Thanh giang đằng
  • Họ: Celastraceae (Dây gối)

2. Mô tả

  • Xạ đen thuộc loại cây dây leo thân gỗ, mọc thành búi, thân cây dạng dây dài từ 3-10m, cành tròn. Lúc non có màu xám nhạt, sau chuyển sang màu nâu, về sau có màu xanh.
  • Lá mọc so le, phiến lá bầu dục, hình xoan ngược, dài 7-12cm, rộng 3-5cm, dai, gân bên 7 đôi, mép có răng tháp, cuống lá 5-7mm.
  • Chùm hoa ở ngọn hay nách lá, dài 5-10cm, cuống hoa 2-4mm, hoa mẫu 5 cánh, cánh hoa trắng. Hoa cái có bầu 3 ô.
  • Quả hình trứng, dài 1cm, khi chín có màu vàng và tách ra thành 3 mảnh, hạt có áo hạt màu đỏ hồng.
  • Mùa hoa: tháng 3-5, mùa quả: tháng 8-12

Xạ đen 1

Hình 1: Hình ảnh cây Xạ đen Celastrus hindsii

3. Cây nhầm lẫn

Cây Xạ đen Celastrus hindsii thường bị nhầm lẫn với cây Cùm rụm (Ehretia dentata Courch.), và cây Dót (Ehretia asperula Zoll. & Mor.) hay còn gọi là Xạ đen Hòa Bình.

  • Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau rất rõ về thành phần hóa học giữa cây Celastrus hindsiiEhretia asperula.
  • Luận án tiến sĩ của học giả Nguyễn Huy Cường (2009) đã chỉ ra rất rõ các thành phần hóa học trong Ehretia asperula ( dân gian hay gọi tên là xạ đen Hòa Bình ) chưa thể hiện rõ tác dụng ức chế nào đối với các dòng tế bào ung thư gan và phổi.

Do vậy chỉ duy nhất loài xạ đen châu Âu tên khoa học (Celastrus hindsii ) có nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam và chứng minh tác dụng ức chế tế bào ung thư.

Xạ đen 2

Hình 2: Hình ảnh cây xạ đen Hòa Bình (Ehretia asperula ) hay bị nhầm lẫn với cây Xạ đen châu Âu chuẩn 

4. Phân bố sinh thái

Cây mọc ở vùng thấp với độ cao 1000-1500m. Phân bố ở các nước Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar. Ở Việt Nam, cây Xạ đen Châu âu (Celastrus hindsii) rất hiếm gặp trong tự nhiên. Phân bố rải rác ở Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ninh, vườn quốc gia Cúc Phương, Thừa Thiên Huế, Tây Nguyên…

5. Sử dụng và nghiên cứu về Xạ đen

Trên vùng núi cao của tỉnh Hòa Bình, đồng bào dân tộc Mường thường dùng một loại cây dại mọc hoang có tên là Xạ đen (hay Xạ đen cuống, tiếng Mường gọi là Xạ cái) để chữa trị bệnh u bướu, mụn nhọt. Theo y học cổ truyền: Cây Xạ đen có vị thơm mát, là vị thuốc rất đa công dụng. Cây mới chỉ được dùng theo kinh nghiệm của một số bà lang, chưa có kiểm chứng khoa học.

Nhiều chục năm trước, cây Xạ đen từng được Lương y người Mường Bùi Thi Bẻn đặt tên là cây ung thư và chuyên dùng để chữa các loại u phổi nhưng chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh công dụng này, mà chỉ qua lời truyền miệng sai lệch của dân gian.

Đề tài NCKH do Giáo sư Lê Thế Trung (nguyên chủ tịch Hội Ung thư TP. Hà Nội)

  • Đề tài đã công bố về cây Xạ đen Celastrus hindsii có tác dụng hạn chế sự phát triển của khối u, đặc biệt là các khối u ác tính (ung thư). Công bố của nghiên cứu này trùng khớp với các Công bố nghiên cứu trên thế giới về loài Celastrus hindsii (Xạ đen). Đã có 7 công trình nghiên cứu trên thế giới về loài cây này.
  • Nghiên cứu cho thấy trong xạ đen có các hoạt chất Flavonoids, Quinone (có tác dụng phòng chống ung thư và làm cho tế bào ung thư hóa lỏng dễ tiêu), hợp chất Saponin Triterpenoids (có tác dụng chống nhiễm khuẩn). Đây là một trong số những hoạt chất rất quý mà ít thấy ở các cây thuốc như: Trinh nữ hoàng cung, cây hoàn ngọc, cây thông đỏ…
  • Năm 1999 đề tài cấp nhà nước của giáo sư Lê Thế Trung được nghiệm thu, cây Xạ đen được ghi nhận là có tiềm năng trong việc kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư.

Cũng cần lưu ý là mọi công bố khoa học của cố GS.TS. Lê Thế Trung và thế giới về tác dụng ức chế tế bào ung thư đều nói về loài Celastrus hindsii (ảnh ở trên) chứ không phải là cây xạ đen Hòa Bình (Ehretia asperula Zoll. & Mor.). 
Xem thêm: Nghiên cứu tác dụng ức chế tế bào ung thư và chống oxy hóa của lá xạ đen (Celastrus hindsii Benth et Hook.)
6. Thành phần

6.1. Các polyphenol:
Ly và cộng sự đã tiến hành chiết xuất và phân lập được từ dịch chiết Methanol 50% từ lá của loài Celastrus hindsii Benth. Kết quả thu được 8 hợp chất polyphenol gồm rutin , kaempferol 3-rutinoside , axit rosmarinic , axit lithospermic và axit lithospermic B , và ba oligome mới của axit rosmarinic, một dimer và hai trimers . Đây đều là các chất có khả năng chống oxi hóa rất tốt.

Xạ đen 3

6.2. Các sesquiterpene và triterpene

  • Từ thân cây loài Celastrus hindsii Benth, Hui-Chi HUANG cùng nhóm nghiên cứu đã xác định các estar agarofuran sesquiterpene, 1b, 2b, 6a, 15b-tetracetoxy-8b, 9a-dibenzoyloxy-b-dihydroagarofuran (celahin D) , emarginatine E. Ba triterpen được xác định gồm loranthol, lupenone và friedelinol.

Xạ đen 4

  • Bốn hợp chất triterpene mới, celasdin-A (14), celasdin-C (15), celasdin-B (16) và cytotoxic maytenfolone-A, được phân lập từ Celastrus hindsii. Đánh giá sinh học cho thấy maytenfolone -A có khả năng kháng tế bào ung thư gan (HEPA-2B, EDs0 = 2.3 / zg ml – ~) và ung thư biểu mô vòm họng (KB, EDs0 = 3,8 #g ml – 1). Celasdin-B đã được tìm thấy đã thể hiện khả năng ức chế sao chép HIV hoạt động trong các tế bào lympho H9 với ECs0 là 0,8 / zg ml. [3][8]

Xạ đen 5

  • Nghiên cứu hóa học của Celastrus hindsii đang phát triển ở  Việt Nam đã dẫn đến phân lập và làm sáng tỏ cấu trúc của axit glucosyringic, lup-20 (29) -ene-3β, 11β-diol, lup-20 (29) -ene-3-one (lupenone) và lup-5,20 (29) -diene-3-one

Xạ đen 6

  • Theo Lou và cộng sự, trong loài Celastrus hindsii Benth có các triterpenoids loại oleanane (1- 2) mới và một diterpenoid loại podocarpane mới, cùng với 20 hợp chất đã biết (5 -24 ) được phân lập từ thân cây Celastrus hindsii Ngoài ra, tất cả các hợp chất được đánh giá cho các hoạt động chống vi rút in vitro của chúng chống lại vi rút hợp bào hô hấp (RSV) bằng các xét nghiệm giảm hiệu ứng tế bào (CPE). Các hợp chất 7, 10, 11, 19 và 24 thể hiện hoạt động chống RSV rõ ràng với các giá trị IC50 từ 1,55 đến 6,25 M.

Xạ đen 7

  • Một loại macrocyclic lactone mới có tên Hindsiilactone A , 5,8-quinoflavan mới có tên Hindsiiquinoflavan B và ba hợp chất đã biết (Combretastatin D-2 , Combretastatin D-3 và isocorn được phân lập từ chiết xuất ethanol 80% từ thân cây Celastrus hindsii Tất cả các hợp chất phân lập được đánh giá có độc tính tế bào chống lại bốn dòng tế bào khối u ở người gồm : NCI-H187, HCT116, BC-1 và HuH7.

Xạ đen 8

Xem thêm: PHÂN ĐOẠN TOÀN DIỆN CÁC CHẤT CHỐNG OXY HÓA VÀ BẰNG PHƯƠNG PHÁP GC-MS VÀ ESI-MS TRONG LÁ LOÀI CELASTRUS HINDSII
7. Tác dụng của cây xạ đen

Tác dụng chống khối u

  • Các hoạt chất Flavonoids, Triterpenoids, Polyphenols có tác dụng chống hình thành khối u, ức chế sự phát triển của tế bào ung thư và hạn chế sự di căn ung thư.
  • Tác dụng chống ung thư của cây xạ đen đã được chứng minh trong đề tài “Nghiên cứu tác dụng chống ung thư của cây xạ đen” là đề tài cấp Nhà nước do giáo sư Lê Thế Trung làm chủ nhiệm, thực hiện tại Học viện Quân y giai đoạn 1987-1999. Năm 1999 đề tài được nghiệm thu và cây xạ đen được công nhận là một vị thuốc nam có tác dụng điều trị ung thư.

Tác dụng chống oxy hóa

  • Các hoạt chất của xạ đen đều có tác dụng chống gốc tự do và làm giảm tác hại của gốc tự do với các tế bào.

Bài thuốc về cây Xạ đen

Thông kinh, lợi tiểu, giải nhiệt: 15g xạ đen, 12g kim ngân hoa. Dùng các vị thuốc đã phơi khô đem sao vàng rồi hãm như nước chè. Uống hết thuốc trong ngày.

Tăng cường hệ miễn dịch, giảm căng thẳng: 15g xạ đen, 15g giảo cổ lam và 15g nấm linh chi. Dùng tất cả nguyên liệu trong 1 thang thuốc và sắc uống hàng ngày.

Hỗ trợ điều trị các bệnh về gan: 50g xạ đen, 30g cà gai leo và 10g mật nhân. Cho tất cả nguyên liệu trong 1 thang thuốc rồi cho vào nấu cùng với khoảng 2 lít nước trong khoảng 15 phút. Dùng uống thay nước hàng ngày.

Sản phẩm có thành phần Xạ đen trên thị trường hiện nay

Bệnh U xơ tuyến vú hay còn gọi là bướu sợi tuyến, là một dạng u lành tính phổ biến của tuyến vú. Bệnh u xơ vú không quá nguy hiểm, không có biến chứng và không chuyển biến thành ung thư vú. Các chuyên gia y tế hàng đầu về u vú cho biết, u xơ tuyến vú có thể chữa khỏi bằng cách phẫu thuật hoặc điều trị nội tiết. Đối với bệnh nhân có khối u nhỏ, u lành tính thường dùng thuốc điều chỉnh nội tiết để đưa tỉ lệ estradiol/progesteron về bình thường ở mức thích hợp, cân bằng nội tiết tố và điều hòa kinh nguyệt.

Sản phẩm Ích phụ Tuệ Linh với công thức đột phá kết hợp 5 dược liệu chống u và ung thư hàng đầu hiện nay. Đây cũng là sản phẩm đầu tiên và duy nhất sử dụng Xạ đen châu Âu trên thị trường hiện nay

Công dụng:

Phòng chống và ngăn chặn sự phát triển của u xơ tuyến vú

  Giảm nguy cơ mắc và ngăn ngừa u xơ tử cung, u nang buồng trứng phát triển

Bổ huyết tăng cường sức khỏe, tăng hệ miễn dịch.

Trinh nữ hoàng cung 1

Hình ảnh sản phẩm Ích phụ Tuệ Linh

Trên đây là một số thông tin về hình ảnh, liều lượng công dụng của cây Xạ đen. Nếu cần tư vấn và tìm hiểu thêm về cây Xạ đen và các loại cây dược liệu khác bạn có thể liên hệ qua số tổng đài tư vấn 1800.1190 (miễn phí tư vấn) hoặc đặt câu hỏi của bạn ở mục ý kiến ở cuối bài viết, Tra cứu dược liệu sẽ giải đáp những thắc giúp bạn có thêm những thông tin đáng tin cậy.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/duoc-lieu-xa-den.html/feed 0
Trai sông https://tracuuduoclieu.vn/trai-song.html https://tracuuduoclieu.vn/trai-song.html#respond Thu, 02 May 2019 02:40:45 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=32912

1. Mô tả

  • Động vật thân mềm hai mảnh vỏ, dài 10 – 20 cm, rộng 8 – 16 cm.
  • Vỏ có dạng đĩa hình trứng dẹt, cạnh trước tròn, mép mỏng, cạnh sau bằng, mép tầy hơi gồ lên ở một phía.
  • Mặt bụng phồng ở khoảng giữa, có những đường gân cong mờ.
  • Mặt ngoài vỏ bóng, màu vàng nâu đến nàu đen.
  • Bên trong là lớp thịt nhầy, màu trắng.

Các loài trai vỏ dày (Cristaria herculea Middendorff), trai điệp (Sinohyriopsis cumingii Lea) cũng được sử dụng.

2. Phân bố, sinh thái

Trai sông có nhiều ở các nước châu Á, sống khắp nơi trong ao, hồ, sông, suối ở vùng đồng bằng, trung du và miền núi. Thức ăn của trai sông gồm các loại tảo, động vật đơn bào. Trai sông đẻ trứng, trứng mở thành ấu trùng và qua nhiều lần biến đổi trở thành trai trưởng thành sống độc lập. Người ta bắt trai sông lấy thịt làm thực phẩm và dùng vỏ trai làm nguyên tiêu sản xuất đồ mỹ nghệ. Do thời tiết thuận lợi, nên việc nuôi trai rất phát triển ở các tỉnh phía nam từ Phú Yên đến Minh Hải, cả ở các đảo Phú Quốc, Côn Đảo.

3. Bộ phận dùng

Trai sông có tên thuốc là bạng gồm thịt trai và vỏ trai.

4. Thành phần hóa học

Thịt trai sông chứa 4,6% protid, 1,1% lipid, 16,4 mgʻ% Ca, 102 mg% P, 70 – 100 mg% Zn, 11,1 mg% Fe, 0,02 mg% vitamin B,, 0,18 mgʻ%b vitamin B, 1,2 mg% vitamin PP, 9 mg% vitamin C (Viện Dinh dưỡng).

Vỏ trai sông chứa Ca dưới dạng carbonat và chất chitin.

5. Tính vị, công năng

Thịt trai sông có vị ngọt, mặn, tính hàn, có tác đụng lợi thấp, thanh nhiệt, tiêu khát, hạ huyết áp. Vỏ trai sông có vị mặn, tính hàn, có tác dụng giảm đau, chống viêm, tiêu tích, minh mục, hóa đờm.

6. Công dụng

Nhân dân ở các địa phương thường dùng trai sông (cả trai vỏ dày) dưới dạng thức ăn – vị thuốc phổ biến để chữa bệnh.

Chữa mồ hôi trộm ở trẻ: Họ bắt trai về, rửa, cho vào nồi nước, đun sôi cho trai há miệng. Để nguội, gỡ thịt trai, lấy 50 g thái nhỏ, trôn với một nắm lá dâu non đã rửa sạch, thái nhỏ. Nấu cho nhừ thịt trai, thêm muối cho đủ đậm. Cho trẻ ăn làm 2 lần trong ngày để chữa mồ hôi trộm, trẻ hay khóc về đêm. Dùng 3 – 5 ngày.

Chữa huyết áp, đau đầu, thủy thũng: Thịt trai (30 – 50 g) nấu với râu ngô (20 g loại non càng tốt) cho thật nhừ. Vớt râu ngô ra, thêm hành (10 g), gừng (3 g) và bột gia vị ăn trong ngày.

Để chữa viêm gan, vàng da: Có thể lấy thịt trai (30 – 50 g), nhân trần (30g) thái nhỏ, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày.

Chữa sưng vú: Vỏ trai sông nung thành vôi, tán nhỏ, lấy 6g trộn đều với gai bồ kết rang vàng, tán nhỏ (40 g). Mỗi ngày uống một thìa cà phê bột với ít rượu.

Chữa cao huyết áp, phòng ngừa tai biến mạch máu não, nhức đầu, chóng mát, suy gan.

Theo tài liệu nước ngoài, ở Trung Quốc, người ta cũng dùng thịt trai sông như những thức ăn – vị thuốc. Thịt trai (50 g) ninh nhừ với thịt lợn nạc (20 g) ăn vào bữa cơm chữa bệnh đái nhiều về đêm, xào chín với dầu lạc, thêm ít rượu, gừng, muối, ăn trong ngày. chữa kinh nguyệt quá nhiều, nấu nhừ thành cháo với thịt hầu (50 g) và gạo tẻ (100 g), ăn ngày hai lần.

Các nhà khoa học ở Đại học quốc gia Singapore đã nghiên cứu thành công phương pháp vá vết thương ở người bằng hỗn hợp chất chitin lấy từ vỏ ốc, trai, hến, cua kết hợp với môt số chất từ loại nấm. Loại thuốc mới này có tác dung ngăn cản sư đóng cục của máu và hàn được cả những vết gẫy của xương.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/trai-song.html/feed 0
Rùa núi https://tracuuduoclieu.vn/rua-nui.html https://tracuuduoclieu.vn/rua-nui.html#comments Tue, 09 Apr 2019 07:37:48 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=31165

Mô tả

Loài rùa nhỏ. Thân ngắn bọc trong một vỏ đỏ nhiều phiến sừng hay vảy cứng ghép lại, gồm tấm giáp lưng dày và lồi gọi là mu hay mai và tấm giáp bụng phẳng là yếm. Đầu tròn, trơn nhẵn, cổ dài linh động, có thể rụt hẳn vào trong mai. Bốn chân to, hình trụ, có móng, chân trước ngắn hơn chân sau. Đuôi ngắn. Mai màu vàng nâu, đen sẫm hơn ở giữa mỗi phiến sừng. Rùa đực thường nhỏ hơn rùa cái.

Loài rùa nước (thuỷ quy – Clemmys mutica Cantor) cũng được sử dụng.

Phân bố, sinh thái

Rùa núi phân bố ở các nước Châu Á. Ở Việt Nam, rùa núi sống hoang ở vùng núi, chỗ ẩm thấp trong rừng, bờ sông rạch. Ở miền Nam, về mùa khô, rùa núi ẩn nấp trong bụi và chỉ hoạt động kiếm ăn vào mùa mưa. Thức ăn của rùa núi là động vật không xương sống, cá, sâu bọ, cỏ và quả rừng. Đẻ trứng trên cạn, vùi vào cát. Rùa núi được thu bắt quanh năm nhưng nhiều nhất vào tháng 8-12.

Bộ phận dùng

Yếm rùa có tên thuốc trong y học cổ truyền là quy bản hay quy giáp. Máu (quy huyết) và tinh trùng của rùa cũng được sử dụng.

Cách thu hoạch và chế biển yểm rùa núi

Rùa bắt về, đập chết, bóc lấy yếm, cạo hết thịt, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô, được huyết bàn. Nếu cho rùa vào nước sôi để chết rồi mới bóc yếm thì được thang bản. Dược liệu là dạng phiến do nhiều mảnh nhỏ ghép lại, hình bầu dục, mép hơi cong lên, một đầu thuôn hẹp có khuyết lõm vào. Mặt ngoài có màu nâu xám sẫm, mặt trong màu vàng nhạt, chất cứng chắc, dễ gãy ở những đường nối ghép. Huyết bản trơn bóng, không có vết da bị lóc là loại tốt. Thang bản màu sẫm hơn, có vết da bị lóc là loại vừa.

Khi dùng, đem yếm đập vỡ thành những mảnh nhỏ, rổi tẩm giấm, nướng vàng (hoặc rang với cát nóng cho vàng rồi tẩm giấm), tán bột.

Yếm rùa được chế biến thành cao, dùng tốt hơn, theo cách làm sau: Ngâm yếm rùa vào nước, đun sôi trong vài giờ (có nơi ngâm vào nước phèn 5 % hoặc nưốc tro bếp). Lấy ra, cạo sạch gân, thịt còn sót lại. Tẩy bằng rượu. Đập thành mảnh nhỏ, nấu với nước 3 lần, mỗi lần một ngày, một đêm. Lọc bỏ bã. Nước lọc đem cô thành cao đặc rồi đổ khuôn.

Có khi người ta cốn nấu yếm rùa với gạc hươu nai để được quy lộc nhị tiên cao hoặc với mai ba ba để được nhị giáp cao. Có thể còn phối hợp với nhiều vị thuốc có nguồn gốc thực vật.

Thành phần hoá học

Trong yếm rùa có chất béo, chất keo, muối Ca. Mai rùa có nhiều acid amin.

Tính vị, công năng

Theo các tài liệu cổ, yếm rùa có vị ngọt, mặn, tính bình, vào 4 kinh thận, tâm, can và tỳ, có tác dụng bồi dưỡng cơ thể, ích khí, mạnh gân xương, giảm đau. Máu rùa (tiết) có vị mặn, tính hàn, không độc, có tác dụng bổ, tăng sức.

Công dụng

Từ ngàn xưa, con người đã lấy rùa làm biểu tượng cho tuổi thọ, trí tuệ và sự may mắn.

Yếm rùa

Chữa suy nhược, lao lực quá độ, mỏi mệt, nóng trong, sốt rét, ho lâu ngày, thận kém, chân tay đau nhức, trẻ em yếu xương, chậm lớn, chậm biết đi. Ngày uống 5 – 10g chia làm 2 – 3 lần dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc. Đối với cao quy bản, khi dùng mới cắt thành những miếng nhỏ, ăn với cháo hoặc mật ong, mỗi ngày 10 – 20 g chia làm 3 lần. Dùng liền một tháng. Quy lộc nhị tiên cao lại được ngâm rượu và mật ong, uống mỗi ngày vài chén là thuốc đại bổ tinh tuỷ, ích khí dưỡng thần. Nhị giáp cao hoà loãng trong nước cơm hâm nóng với liều 6 – 10g trị thiếu máu, háo khát. Người có máu hàn, hay bị tiêu lỏng, không nên dùng yếm rùa.

Tinh trùng rùa

Chữa điếc tai. Cách lấy tinh như sau : Đè nặng lên mu con rùa đực, đặt một cái gương trước mặt. Rùa đực tưởng trước mặt là rùa cái nên xuất tinh. Hứng lấy, nhỏ vào tai, ngày vài lần.

Máu rùa

Chữa khó thở trong bệnh tim mạch. Máu rùa pha vói rượu theo tỷ lệ 2 phần máu và một phần rượu. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 1 chén nhỏ.

Theo tài liệu nước ngoài, máu rùa là một vị thuốc đại bổ, làm tăng nhanh sức lực và sự dẻo dai của cơ thể một cách phi thường. Một số chuyên gia về chất kích thích thấy các nữ vận động viên Trung Quốc thường xuyên uống tiết rùa tươi, nên đã giành được nhiều thành tích vượt bậc trong các cuộc thi thể thao thế giới. Ngoài ra, ở thành phố Bénares (Ấn Độ), người ta có sáng kiến dùng rùa để làm sạch môi trường, giải quyết tình trạng ô nhiễm nặng nước sông Hằng mà hàng năm vẫn gây ra nhiều nạn dịch.

Bài thuốc có rùa núi

Dùng ở Việt Nam

Chữa mụn rò, chảy nước và mủ, lòi dom:

  • Mai rùa, mai ba ba, phèn chua (liều lượng bằng nhau) đốt tồn tính, tán nhỏ, rây mịn, rắc vào chỗ đau (Nam dược thần hiệu).
  • Chữa thận hư, di tinh, băng huyết, khí hư, ho, lưng gối đau mỏi, kiết lỵ, sốt rét lâu ngày:
  • Yếm rùa (20 g), rễ cây trung quân (20g), vỏ cây đỗ trọng nam (30 g), rễ nhàu (20g), sàm Bố Chính (20g). Tất cả thái nhỏ, sao vàng, ngâm rượu uống. Mỗi ngày 1-2 chén nhỏ.

Chữa ho lâu ngày:

Yếm rùa và đảng sâm (lượng bằng nhau) tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 – 20g.

Chữa di mộng tinh:

Cao quy bản (lOg), thục địa (16g), hoài sơn (12g), phá cố chỉ (8g, sao với rượu), thỏ ty tử ( 8g, sao), rau má (8g), vỏ rễ cây đơn đỏ (6 g, sao), khiếm thực (6g, sao). Cao quy bản hơ nóng cho chảy; thục địa giã nhuyễn. Các dược liệu khác phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn đều với cao quy bản và thục địa, rồi cho mật ong vừa đủ để làm viên 2 g. Mỗi ngày uống 10 viên. Chia làm 2 lần.

Dùng ở Trung Quốc

Chữa mất ngủ:

  • Thịt rùa (250g), táo tàu (10 quả), bách hợp (30 g). Thái nhỏ, ninh nhừ. Ăn cả nước lẫn cái.
  • Chữa suy nhược ở trẻ em, thóp chậm cứng lại:
  • Mai rùa (15g), đảng sâm (15g), cốt toái bổ (15g). Sắc lấy nước uống trong ngày.

Thuốc giảm mỡ, cholesterol trong máu, phòng u bướu:

Thịt rùa (300 g), nấm linh chi (30 g), táo tầu (10 quả). Tất cả ninh nhừ thêm gia vị, ăn cả cái lẫn nước.

Thuốc bổ, hạ huyết áp :

Thịt rùa (200g), ngưu tất (12g). Hai vị thái nhỏ, hầm nhừ, thêm gừng (5g), hành (10g), muối (5g). Ăn trong ngày.

Ghi chú:

Rùa núi là đối tượng bị săn bắt nhiều nên số lượng trong tự nhiên còn rất ít. Chỉ trong một tháng cuối năm 1995, hơn 3000 con rùa núi đã được thu hồi để trả lại thiên nhiên. Nó đã được ghi vào Sách Đỏ quốc gia để bảo vệ.

Nguồn : Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam.

 

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rua-nui.html/feed 2
Ba gạc lá vòng https://tracuuduoclieu.vn/ba-gac-la-vong.html https://tracuuduoclieu.vn/ba-gac-la-vong.html#respond Wed, 03 Apr 2019 02:09:32 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=30641

Mô tả

  • Cây nhỏ cao 1 – 1.5 m. Thân nhẵn có những nốt sần nhỏ, màu lục sau xám. Cành non dẹt, có khía dọc sau tròn, màu xám. Lá mọc vòng 3, đôi khi 4 -5, khi non có khi mọc đối , phiến lá hình mác, gốc thuôn, đầu nhọn, cuống ngắn, dài 6 – 11 cm, rộng 1.5 – 3 cm.
  • Hoa nhỏ, màu trắng, mọc ở gần thân thành xim dạng tán kép, dài 4 – 7 cm; dài hình chuông, tràng hình ống thường hơi cong; nhị 5 đính ở họng tràng; bầu có 2 ô.
  • Quả hạch đôi, hình trứng, khi chín màu đỏ tươi. Toàn cây có nhựa mủ.
  • Mùa hoa: tháng 4 – 6 , mùa quả tháng 7 – 10 . Ở đồng bằng có khi nở hoa quanh năm.
  • Tránh nhầm với cây ba chạc (Euodia lepta (Spreng.) Merr. – Rutaceae) nhiều nơi gọi là ba chạc tám ghẻ.

Phân bố sinh thái

  • Ba gạc lá vòng là một trong những loài ba gạc mọc tự nhiên được nhắc đến nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên kết quả điều tra của viện dược liệu từ 1961 đến nay có thể khẳng định đây là một cây thuốc tương đối hiếm ở nước ta. Các điểm phân bố đã được xác định lại thuộc các tỉnh Lạng Sơn (huyện Văn Quan), Nghệ An (Kỳ Sơn), Cao Bằng, Phú Thọ. Trước đây cây được trồng làm mẫu ở  vườn thuốc Trạm nghiên cứu dược liệu Nam Hà. Hiện nay còn trồng lưu giữ tại trạm nghiên cứu cây thuốc Tam Đảo và Sa Pa (Viện dược liệu)
  • Ba gạc lá vòng là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng khi còn nhỏ. Trong tự nhiên, cây thường mọc lẫn với một vài loại cây bụi khác: ở bờ nương, rẫy, ven đường đi. Rụng lá mùa đông, cây trồng từ hạt sau hai năm cao khoảng 0.8 m và bắt đầu có hoa lứa đầu tiên. Càng về sau, hoa quả càng nhiều. Đặc biệt quả chín của năm trước có thể tồn tại đến đầu mùa hoa quả năm sau. Tỉ lệ nẩy mầm cao nhất của hạt khoảng 75 %.
  • Vì trữ lượng ít, ba gạc lá vòng đã được vào “Sách đỏ Việt Nam” để bảo vệ.

Bộ phận dùng

Rễ sấy khô hay phơi khô.

Thành phần hóa học

  • Vỏ rễ ba gạc lá vòng chứa trung bình 0.90 – 2.29 % alkaloid toàn phần, trong đó có reserpine, ajmalicin, serpentin.
  • Lá chứa 0.72 – 1.69 % alcaloid toàn phần
  • Ba gạc lá vòng còn chứa spegatrin, verticilatin.

Tác dụng dược lý

Ở Việt Nam dạng nước sắc của ba gạc lá vòng đã được chứng minh có những tác dụng sau đây:

  • Trên chó thí nghiệm với liều 0.5kg/ kg có tác dụng hạ áp rõ rệt. Trên tim ếch cô lập và tại chỗ có tác dụng làm chậm nhịp tim. Còn có tác dụng an thần gây ngủ.
  • Theo tài liệu nước ngoài (Trung Quốc) dịch chiết nước cồn của lá và rễ ba gạc lá vòng với liều 100 – 150 mg/kg trên chó gây mê có tác dụng hạ huyết áp, kéo dài khoảng 1 giờ. Nước sắc vỏ rễ bằng đường cho thuốc vào dạ dày trên chó gây mê tác dụng hạ huyết áp xuất hiện sau khi dùng thuốc 30p. phần alkaloid tan trong nước, trên chó và mèo thí nghiệm với liều 1 – 3mg/ kg tiêm tĩnh mạch có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài; trên chó gây cao huyết áp thực nghiệm thuốc cũng có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Chất Rauvolfin A chiết từ ba gạc lá vòng với liều lượng 2mg/kg trên mèo gây mê có tác dụng hạ huyết áp, đối kháng với tác dụng tang huyết áp của adrenalin, tác dụng an thần yếu. Cũng như các loài ba gạc khác, tác dụng hạ huyết áp của các chế phẩm từ ba gạc lá vòng thay đổi theo từng địa phương cây mọc. LD30 được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường uống của ba gạc lá vòng mọc ở Trung Quốc là 0.69 g/ kg (ở Quảng Tây) và 0.82 g/ kg (ở Hải Nam)
  • Alcaloid spegatrin chiết từ ba gạc lá vòng có tác dụng ức chế sự phân tiết adrenalin, còn chất verticilltalin có tác dụng phong bế hạch. Việc sử dụng trên làm lâm sàng chứng tỏ verticilltalin có tác dụng điều trị tốt đối với tăng huyết áp lại ít có tác dụng phụ.

Công dụng

  • Ở Việt Nam ba gạc lá vòng được dùng điều trị tăng huyết áp dưới dạng viên, cao lỏng. Cao lỏng của rễ lá ba gạc lá vòng chứa 1.5% alkaloid toàn phần, liều trung bình mỗi ngày 30-60 giọt.
  • Ở Trung Quốc , ba gạc lá vòng cũng được điều trị tăng huyết áp có hiệu quả. Lá tươi giã nát đắp tại chỗ vết thương rắn cắn.
  • Ở Đài Loan, nước sắc rễ  ba gạc lá vòng được dùng làm thuốc diệt côn trùng.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/ba-gac-la-vong.html/feed 0
Tang ký sinh https://tracuuduoclieu.vn/tang-ky-sinh.html https://tracuuduoclieu.vn/tang-ky-sinh.html#respond Wed, 27 Mar 2019 09:49:21 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=30246

Mô tả

  • Cây nhỏ, thường xanh, ký sinh trên thân cây dâu tằm nhờ các rễ mút. Cành hình trụ, khúc khuỷu, màu xám hay nâu đen.
  • Lá mọc so le, hình bầu dục, dài 3 – 8cm, rộng 2,5 – 5cm, gốc thuôn hoặc hơi tròn, đầu tù đôi khi lõm, mép hơi lượn sóng, gân phụ cong; cuống lá ngắn.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm rất ngắn gần như hình tán; lá bắc nhỏ hình tam giác; hoa màu đỏ hoặc hồng tím; đài hình chùy có răng rất nhỏ, tràng hình trụ hơi phình ở giữa, có lông; nhị 4, chỉ nhị dài hơn bao phấn; bầu hạ.
  • Quả hình bầu dục, có vết tích của đài tồn tại.
  • Mùa hoa quả: tháng 1-3.

Phân bố, sinh thái

Tang ký sinh có vùng phân bố tự nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào nơi có trồng cây dâu tằm. Song, hiện nay chưa có những nghiên cứu cụ thể để chứng minh loài này còn ký sinh trên những loài cây chủ nào khác. Trên thế giới tang ký sinh cũng được đề cập đến ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin….

Cây ưa sáng và ưa ẩm, ra hoa quả nhiều hàng năm. Tuy nhiên, ở những vùng trồng dâu tằm rộng lớn cũng hiếm khi gặp tang ký sinh.

  • Hạt giống của cây phát tán được có lẽ do chim hoặc một số loài động vật nào đó, trong quá trình ăn và tiêu hóa quả chín, đã đưa hạt tang ký sinh sang các cây dâu tằm khác. Bước đầu, hạt giống phải mắc được vào các kẽ nứt của vỏ hoặc hốc cây và gặp điều kiện thuận lợi sẽ nảy mầm nhanh; các rễ cây từng bước len lỏi vào trong lớp vỏ cây chủ để hút chất dinh dưỡng nuôi cây.
  • Trong trường hợp các cành lá của tang ký sinh bị thu hái, phần gốc và rễ ký sinh vẫn bám được ở cây chủ sẽ tiếp tục sinh trưởng phát triển.

Thành phần hóa học

  • Thân, lá tang ký sinh có quercetin, avicularin. Lá còn chứa d–catechin, quercitrin và hyperosid. (Trung dược từ hải II, 1996).
  • Theo Chen Xihong và cs, 1992, tang ký sinh chứa lectin với hàm lượng đường là 14%. Hàm lượng acid amin gốc acid cao, còn các acid amin base ít. Không thấy có arginn (CA 117: 22098 z).
  • Tang ký sinh có chất độc đối với tế bào nhất là tủy xương (CA 120: 235.542 p).

Bộ phận dùng

Toàn cây thu hái quanh năm, phơi hay sấy khô.

Tác dụng dược lý

  • Tang ký sinh dưới dạng cao lỏng cho chó uống, có tác dụng gây hạ huyết áp trên chó gây mê với liều 2g/kg thể trọng, gây giãn mạch ngoại biên trong thí nghiệm in vitro, làm giảm nhu động và trương lực cơ trơn ruột thỏ cô lập, làm an thần, kéo dài thời gian giấc ngủ gây bởi hexobarbital.
  • Tang ký sinh không độc. Cao methanol và cao nước của nó được thử nghiệm về tác dụng ức chế trên transcriptase ngược của  bệnh tăng nguyên tủy bào của chim đã biểu lộ hoạt tính ức chế khá mạnh. Những cao này không có tính độc hại tế bào có ý nghĩa ở nồng độ có tác dụng ức chế hoạt tính của transcriptase ngược ở mức trên 90%. Cao chiết từ các loài Loranthus ký sinh trên 15 loại cây chủ khác nhau đã được thử nghiệm về tính độc hại tế bào; chỉ có 2 loài tầm gửi biểu lộ hoạt tính độc hại tế bào. Một số chất chiết tách và tinh chế môt phần làm giảm u báng và u rắn gây bởi tế bào u báng Ehrlich và tế bào u báng lympho Daltois. Chất lectin có thể gây ngưng kết hồng cầu thỏ ở nồng độ 156 mg/ml, nhưng không gây ngưng kết hồng cầu loại A B, O của người, ngay cả khi dùng nồng độ lectin cao là 100 mg/kg.
  • Galactose, N-acetylgalactosamin sorbose, fructose, và melizitose có khả năng ức chế sự ngưng kết tiểu cầu thỏ bởi lectin. Lectin còn là một chất gây phân bào đối với tế bào lympho ngoại biên của lợn thiến. Một chất độc hại tế bào đối với tế bào u tủy, đã được phân lập từ tang ký sinh, có thể ức chế sự tổng hợp protein trong một dịch phân giải hồng cầu lưới của thỏ.

Tính vị, công năng

Tang ký sinh có vị đắng, tính bình, vào hai kinh can và thận, có tác dụng bổ gan thận, trừ phong thấp, mạnh gân xương, an thai, lợi sữa.

Công dụng

Tang ký sinh được dùng chữa phong thấp, gân cốt nhức mỏi, tê bại, lưng gối đau, động thai đau bụng, phụ nữ sau khi đẻ không có sữa. Ngày dùng 12 – 20g, dạng thuốc sắc hoặc nấu nước uống thay trà. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.

Chữa đau xóc hai bên hông ở phụ nữ có thai, dùng tang ký sinh tươi, rửa sạch, giã nhuyễn, thêm nước gạn lấy một bát uống.

Chữa đại tiện ra máu, lưng gối đau, yếu sức, dùng tang ký sinh phơi khô, tán bột, mỗi lần uống 4g với nước ấm.

  • Trong y học Trung Quốc, tang ký sinh được coi là có tác dụng kích thích sự tạo máu, để điều trị thiếu máu và chảy máu ở phụ nữ mang thai và sau khi đẻ, thấp khớp, đau kinh và tăng sức khỏe ở người bị bệnh mạn tính. Tang ký sinh còn được dùng phối hợp với các thuốc khác để điều trị tăng huyết áp, trẻ em bị di chứng bại liệt, tay chân tê liệt, động thai, thiếu sữa, phù thũng, đau dạ dày, tâm thần phân liệt. Ngày dùng 8 – 12g, dạng thuốc sắc và thuốc hãm.
  • Ở Ấn Độ, nhân dân dùng lá tang ký sinh giã đắp tri mụn nhọt, lở loét.

Bài thuốc có tang ký sinh

Chữa tăng huyết áp:

  • Tang ký sinh 16g; chi tử, câu đằng, ngưu tất, ý dĩ, mã đề, mỗi vị 12g; xuyên khung, trạch tả, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
  • Chữa tăng huyết áp ở người trẻ, hoặc do rối loạn tiền mãn kinh: Tang ký sinh 20g; rau má 30g; hoa hoè, lá tre, cỏ gianh, mỗi vị 20g; hạt muồng, cỏ nhọ nồi, mỗi vị 16g; ngưu tất 12g; hạ khô thảo long; tâm sen 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa tăng huyết áp ở người cao tuổi:

  • Tang ký sinh 12g; mẫu lệ 20g; hà thủ ô 16g; kỷ tử, sinh địa, quả dâu chín, ngưu tất, mỗi vị 12g; trạch tả 8g. Sắc uống ngày một thang.
  • Tang ký sinh, bạch truật, đảng sâm, táo nhân, long nhãn, ngưu tất, mỗi vị 12g; đương quy, viễn chí, hoa hoè, hoàng cầm, mỗi vị 8g; mộc hương 4g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa tăng huyết áp kèm theo tăng cholesterol máu:

  • Tang ký sinh, câu đằng, hoa hoè, thiên ma, ngưu tất, ý dĩ, mỗi vị 16g; bạch truật 12g, phục linh 8g; bán hạ chế, cam thảo, trần bì, mỗi vị 6g. sắc uống ngày một thang.
  • Tang ký sinh, hoa hoè, hoàng cầm, mỗi vị 16g; trúc nhự, long đởm thảo, mỗi vị 12g; chỉ thực, phục linh, bán hạ chế, mỗi vị 8g; trần bì, cam thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa xơ cứng động mạch vành, hoặc thời kỳ ổn định sau nhồi máu cơ tim:

Tang ký sinh 16g; hà thủ ô 20g; kỷ tử, hoàng tinh, mỗi vị 16g; thục địa, thạch hộc, quy bản, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa viêm cầu thận mạn tính:

Tang ký sinh, câu đằng, mã đề, mỗi vị 16g; cúc hoa, sa sâm, ngưu tất, đan sâm, quy bản, trạch tả, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa liệt nửa người không hôn mê do tai biển mạch máu não:

Tang ký sinh 16g; thạch quyết minh 20g; câu đằng, kê huyết đằng, mỗi vị 16g; ngưu tất, cúc hoa, địa long, hà thủ ô, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa liệt dây thần kinh VII ngoại biên:

Tang ký sinh, ké đầu ngựa, kê huyết đằng, ngưu tất, mỗi vị 12g; quế chi, bạch chỉ, uất kim, trần bì, hương phụ, mồi vị 8g. sắc uống ngày một thang.

Chữa đau dây thần kinh hông do thoái hóa cột sống gây chèn ép:

Tang ký sinh 16g; thục địa, cẩu tích, tục đoạn, ngưu tất, đẳng sâm, ý dĩ, bạch truật, hoài sơn, tỳ giải, hà thủ ô, mỗi vị 12g. sắc uống ngày một thang.

Thuốc phòng bệnh viêm khớp dạng thấp tái phát:

Tang ký sinh 16g; độc hoạt, phòng phong, đảng sâm, phục linh, ngưu tất, đỗ trọng, sinh dịa, bạch thược, mỗi vị 12g; tế tân, tần giao, đương quy, quế chi, phụ tử chế, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. sắc uống ngày một thang.

Chữa thấp khớp mạn, đau nhức:

Tang ký sinh 12g; đảng sâm 20g; hoài sơn 16g; u chặc chìu, kê huyết đằng, đan sâm, thục địa, xích thược, thổ phục linh, thiên niên kiện, độc hoạt, khương hoạt, đỗ trọng, mỗi vị 12g; ngưu tất 10g; nhục quế 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa đau lưng:

Tang ký sinh, ngưu tất, cẩu tích, mỗi vị 12g. sắc uống ngày một thang.

Chữa đau lưng cấp do co cứng các cơ:

Tang ký sinh, khương hoạt, ngưu tất, mỗi vị 12g; phục linh 10g; quế chi, thương truật, mỗi vị 8g; can khương 6g. sắc uống ngày một thang.

Chữa chân tay tê bại, tắc sữa:

Tang ký sinh 30g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa ho:

Tang ký sinh 30g, rễ chanh 20g, lá trắc bá 10g. Sao vàng, sắc uống ngày một thang.

Chữa suy nhược thần kinh:

Tang ký sinh, thục địa, hoài sơn, hà thủ ô, kim anh, liên nhục, mỗi vị 12g; quy bản, kỷ tử, thỏ ty thử, ngưu tất, đương quy, táo nhân, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa viêm tắc động mạch ở thời kỳ đầu và giữa:

Tang ký sinh, thục địa, mỗi vị 16g; xuyên quy, phụ tử chế, xuyên khung, bạch thược, xuyên luyện tử, đan sâm, ngưu tất, hoàng kỳ, mỗi vị 12g; quế chi, đào nhân, hồng hoa, bạch giới tử, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa động thai đau bụng:

Tang ký sinh 60g, a giao (hoặc cao ban long nướng thơm) 20g, lá ngải cứu 20g. Sắc và chia 3 lần uống trong ngày.

Thuốc phòng sẩy thai, đẻ non khi bị động thai:

Tang ký sinh, thỏ ty tử, tục đoạn, a giao mỗi vị 20g. Tán nhỏ làm viên, ngày uống 16 – 20g.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/tang-ky-sinh.html/feed 0
Sa nhân trắng https://tracuuduoclieu.vn/sa-nhan-trang.html https://tracuuduoclieu.vn/sa-nhan-trang.html#respond Wed, 27 Mar 2019 09:20:44 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=30240

Mô tả

  • Cây thảo, cao 1 – 3 m. Thân rễ mọc bò, chằng chịt trên mặt đất.
  • Lá không cuống mọc so le, dài 30 – 40 cm, rộng 5-9 cm, gốc tròn, đầu thuôn dài thành mũi nhọn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt, hai mặt nhẵn; lưỡi bẹ nguyên.
  • Cụm hoa mọc ở thân rễ thành bổng, có 5 – 11 hoa màu trắng; lá bắc ngoài có mũi nhọn ở đầu, lá bắc trong có hai răng nhỏ; đài dài 1,5 – 2 cm, có 3 răng; tràng dài 2 – 2,5 cm, chia 3 thùy, thùy giữa hình khum, hai thùy bốn nhỏ, cánh môi dạng thìa tròn, đường kính 1,6-2 cm, có sọc đỏ tía ỏ giữa phiến, mép nguyên, đầu cánh môi chia hai thùy nhỏ gập ra phía sau, chỉ nhị dài bằng bao phấn; bầu gần hình cầu, có lông mịn.
  • Quả hình cầu, có gai mịn, nguyên hoặc xẻ đôi, chia 3 ô; hạt có áo sần sùi.
  • Mùa hoa : tháng 4-5; mùa quả : tháng 6-7.

Loài Amomun villosum Lour. Còn chia làm hai thứ:

  • A. villosum Lour. var. villosum T.L. Wu ex Senjen Chen. Sa nhân vỏ đỏ, vỏ có màu đỏ nâu từ non đến già, khi chín khó tách vỏ thành 3 mảnh.
  • A. villosum Lour. var. xanthioides (Wall.) T. L. Wu ex Senjen Chen. Sa nhân vỏ xanh. Quả non màu xanh lục, khi chín màu vàng lục. vỏ quả dễ tách thành 3 mảnh.

Phân bố, sinh thái

Sa nhân trắng phân bố rộng rãi ở Quảng Tây, Vân Nam, đảo Hải Nam (Trung Quốc), Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Ớ Việt Nam, so với các loài cùng chỉ, sa nhân trắng được coi là cây có biên độ sinh thái rộng, phân bố phổ biến khắp các tỉnh từ vùng núi (độ cao dưới 1000 m) đến trung du ở miền Bắc cũng như miền Nam. Theo kết quả diều tra nghiên cứu và thống kê của Viện Dược liệu từ năm 1961 đến nay, sa nhân trắng dược ghi nhận ở 38 tỉnh thành phố, với phạm vi phân bố không liên tục lên đến hàng ngàn hecta rừng. Nhiều vùng sa nhân trắng mọc khá tập trung, được phát hiện ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đắc Lắk và Kon Tum. Sa nhân trắng ưa khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm.

Ở các tỉnh miền núi giáp biên giói phía bắc hoặc ở tinh Quảng Tây và Vân Nam – Trung Quốc, nơi có khí hậu thiên về á nhiệt đới, cây vẫn sinh trưởng, phát triển tốt. Điều đó khẳng định sa nhân trắng là loại cây có khả năng thích nghi khá rộng. Cây đặc biệt ưa ẩm, chịu bóng và có thể ưa sáng, thường mọc tập trung thành đám ở ven rừng, dọc theo hành lang ven suối, ven các lối đi trong rừng.

Cách trồng

Giống như sa nhân tím.

Bộ phận dùng

Quả sa nhân trắng thu hái lúc gần chín, bóc vỏ lấy khối hạt màu trắng, phơi khô. Có thể chế biến như sau:

  1. Sa nhân sao: Để cả quả, hay bóc vỏ lấy hạt, sao vàng đến khi có mùi thơm. Có thể sao sém cạnh hoặc sao đen.
  2. Sa nhân chích muối: Sa nhân trắng 10 kg, muối ăn 1,5 kg, nước vừa đủ. Hoà muối vào nước, khuấy cho tan, đổ sa nhân vào ngâm 30 phút cho ngấm hết muối, rồi sao cho khô vàng. Có thể sao sa nhân đến khi có mùi thơm, vẩy nước muối vào, rồi tiếp tục sao đến khô.
  3. Sa nhân chích gừng: Sa nhân trắng 10 kg, gừng tươi 1 kg. Rửa sạch gừng, cát lát, giã nát vắt lấy nước cốt. Thêm nước giã tiếp làm nhiều lần dễ vắt kiệt dịch gừng rồi tẩm đều vào sa nhân. Khi dược liệu hút hết dịch thì sao cho khô.

Thành phần hóa học

Có Saponin và tinh dầu 2 – 3% gồm: Camphor, Borneol Bomyl Acetate, Linalool, Nerolidol, Limonene. Hạt chứa tinh dầu gồm D-camphor, D-borneol, D-bornylacetat, D-limonen, (-pinen, phellandren, paramethoxy ethyl cinnamat, nerolidol, linalol.

Tác dụng dược lý

Trong thử nghiệm in vitro, tinh dầu sa nhân trắng có tác dụng ức chế các vi khuẩn theo thứ tự hoạt tính giảm : Bacillus subtilis, Bacillus mycoides, Diplococcus pneumoniae, Mycobacterium tuberculosis, Proteus vulgaris, Shigella dysenteriae, Salmonella typhi và có tác dụng diệt amíp trên Entamoeba moshkowskii với nồng độ ức chế thấp nhất là 1:2560.

Cao nước của một chế phẩm thuốc cổ truyền Triều Tiên được bào chế từ hạt sa nhân trắng, nhân sâm, cam thảo, kim ngân và một số dược liệu khác, có tác dụng làm tăng thời gian sống của chuột nhắt trắng được cấy sarcom 180 trong phúc mạc, và làm giảm có ý nghĩa độc tính gây chết của cis-platin (45 Ịimol/kg tiêm dưói da) và tác dụng độc hại thận của cis-platin (35 (imol/kg tiêm dưới da) ở chuột nhắt và chuột cống trăng. Hồng cầu và bạch cầu giảm đáng kể ở chuột cống trắng điều trị với cis-platin, trong khi ở chuột điều trị với cis-platin cùng với chế phẩm thuốc, độc tính về huyết học của cis-platin (35 nmol/kg tiêm dưới da) giảm rõ rệt.

Bài thuốc gồm hạt sa nhân, câu đằng, lá tre non và 7 được liệu khác đã dược áp dụng cho 32 bệnh nhân được chẩn đoán có xơ mỡ động mạch ở lứa tuổi trên 45, có cholesterol máu từ 220 mg% trở lên, trong đó 12 bệnh nhân có kèm theo tăng huyết áp. Thuốc được dùng uống dưới dạng viên hoàn trong 30 – 60 ngày. Kết quả có 22/32 bệnh nhân đạt kết quả tốt, và 9/32 người dạt kết quả vừa. Kết quả tốt hơn ở bệnh nhân có tăng cholesterol máu mà không kèm theo tăng huyết áp. Có bệnh nhi sốt cao, đi ngoài ra phân có chất nhầy và máu, và sau đó không nói và tay chân không cử động được, đã được uống bài thuốc Lục quân gia giảm gồm sa nhân 4g, rau má 10g; đảng sâm, thổ phục linh, bạch giới tử, mỗi vị 8g; bạch truật, bạch biển đậu, đương quy, bạch thược, mỗi vị 6g; cam thảo, trần bì, thạch xương bồ, mỗi vị 4g. Sau một thời gian điều trị, bệnh nhi đã bình phục, nói và đi lại được.

Trong một thử nghiệm lâm sàng, hạt sa nhân có hiệu quả diều trị rõ rệt trên viêm loét dạ dày – tá tràng.

Tính vị, công năng

Sa nhân trắng có vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào 3 kinh thận, tỳ, vị, có tác dụng ôn trung, hành khí, chỉ thống, khai vị, tiêu thực, an thai.

Công dụng Sa nhân trắng là vị thuốc kích thích và giúp tiêu hóa, chữa tỳ vị khí trệ, ăn không tiêu, đau bụng lạnh, tiêu chảy, nôn oẹ, động thai, kiết lỵ thuộc hàn. Ngày dùng 3 – 6g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác. Còn được dùng làm gia vị và chế rượu mùi.

Kiêng kỵ : Âm hư, nội nhiệt không nên dùng.

Dùng ngoài hạt sa nhân trắng, giã nhỏ thành bột, chấm vào răng đau, hoặc ngâm rượu cho đặc rồi ngậm để chữa đau răng. Thân rễ của cây (10g) cắt nhỏ, ngâm với 100 ml rượu trong 15 ngày, dùng xoa bóp hàng ngày chữa tê thấp.

Ở Trung Quốc, sa nhân trắng được đùng trị rối loạn về dạ dày và tiêu hóa, nôn, ăn không ngon, khó tiêu, cơn đau bụng, tiêu chảy. Ngoài tác dụng bổ, gãy trung tiện, làm dễ tiêu, sa nhân trắng còn là thuốc điều kinh và hạ sốt. Đôi khi dược chỉ định để chữa lao có khái huyết, bệnh gan, tử cung và thấp khớp. Hạt sa nhân trắng thường có trong thành phần các thuốc lợi tiêu hóa, trị ho và cảm lạnh.

Công dụng

Công dụng Sa nhân trắng là vị thuốc kích thích và giúp tiêu hóa, chữa tỳ vị khí trệ, ăn không tiêu, đau bụng lạnh, tiêu chảy, nôn oẹ, động thai, kiết lỵ thuộc hàn. Ngày dùng 3 – 6g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác. Còn được dùng làm gia vị và chế rượu mùi.

Kiêng kỵ : Âm hư, nội nhiệt không nên dùng.

Dùng ngoài hạt sa nhân trắng, giã nhỏ thành bột, chấm vào răng đau, hoặc ngâm rượu cho đặc rồi ngậm để chữa đau răng. Thân rễ của cây (10g) cắt nhỏ, ngâm với 100 ml rượu trong 15 ngày, dùng xoa bóp hàng ngày chữa tê thấp.

Ở Trung Quốc, sa nhân trắng được đùng trị rối loạn về dạ dày và tiêu hóa, nôn, ăn không ngon, khó tiêu, cơn đau bụng, tiêu chảy. Ngoài tác dụng bổ, gãy trung tiện, làm dễ tiêu, sa nhân trắng còn là thuốc điều kinh và hạ sốt. Đôi khi dược chỉ định để chữa lao có khái huyết, bệnh gan, tử cung và thấp khớp. Hạt sa nhân trắng thường có trong thành phần các thuốc lợi tiêu hóa, trị ho và cảm lạnh.

Bài thuốc có sa nhân trắng

1. Chữa tiêu chảy cấp tính:

  • Sa nhân 8g; hoắc hương 12g; vỏ vối 10g; vỏ rụt, trần bì, hương phụ, hạt vải, mỗi vị 8g. Tán bột, làm viên, uống ngày 10g; hay sắc uống ngày một thang.
  •  Sa nhân 12g; bạch biển dậu 20g; thảo quả, ô mai, sắn dây, mỗi vị 12g; cam thảo 6g. Tán bột làm thành viên, mỗi ngày uống 20g với nước chè đặc.

2. Chữa tiêu chảy mạn tính:

  • Sa nhân 8g; bố chính sâm, củ mài, ý dĩ sao, mỗi vị 12g; trần bì 8g; gừng khô, vỏ rụt, mỗi vị 6g. sắc uống, ngày một thang.
  • Sa nhân 6g; bạch truật, đảng sâm, hoài sơn sao, ý dĩ sao, mỗi vị 12g; phục linh, trần bì, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. sắc uống, ngày một thang.

3. Chữa viêm loét dạ dày – tá tràng:

  • Sa nhân 8g; hương phụ 10g; diên hổ sách, khổ luyện tử, mỗi vị 8g; trầm hương, chích cam thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang.
  • Sa nhân 10g; lá khôi 20g; sâm Bố Chính 12g; mộc hương 10g; bán hạ chế, trần bì, mỗi vị 6g; gừng 4g. Sắc uống ngày một thang.

4. Chữa phụ nữ hay bị sẩy thai:

Sa nhân 8g; đảng sâm 16g; bạch truật, thục địa, bạch thược, tục đoạn, mỗi vị 12g; phục linh, đương quy, hoàng cầm, mỗi vị 8g; xuyên khung 6g; cam thảo 4g. Sắc uống trong ngày.

5. Chữa rối loạn tiêu hóa kéo dài ở trẻ em:

Sa nhân 20g; ý dĩ, hoài sơn, liên nhục, đảng sâm, bạch biển đậu, mỗi vị 100g; cốc nha 30g; trần bì,  nhục khấu, mỗi vị 20g. Ba vị : sa nhân, trần bì, nhục khấu sắc nước đặc, các vị khác tán bột mịn, làm thành dạng cốm. Trẻ em 1 – 3 tuổi, ngày uống 12 – 16g chia 2 lần (Cốm bổ tỳ).

6. Chữa tăng huyết áp:

Sa nhân 6,6g, đỗ trọng 33g, hoàng bá 10g, cam thảo 6,6g. Khi có bệnh tim, thêm quế 6,6g. sắc uống ngày một thang.

7. Phòng chống sốt rét:

Sa nhân vài hạt nhấm ăn hay ăn trầu với sa nhân và nuốt nước.

8. Chữa chứng tăng cholesterol máu:

Sa nhân 8g; phòng đảng sâm, dây câu đằng, củ chóc (chế), mỗi vị 15g; củ tóc tiên (bỏ lõi), thạch cao bạc hà (hoặc phòng phong), vỏ quýt, mỗi vị 12g; cúc hoa vàng, lá tre non, mỗi vị 10g. Làm thành viên hoàn, ngày uống 20 – 30g.

Nguồn : Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam .

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/sa-nhan-trang.html/feed 0
Nấm linh chi https://tracuuduoclieu.vn/nam-linh-chi.html https://tracuuduoclieu.vn/nam-linh-chi.html#respond Mon, 25 Mar 2019 09:43:50 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=30111

Mô tả cây

  • Nấm linh chi không phải một loại cỏ, mà là một loại nấm hoá gỗ có cuống dài hoặc ngắn, mũ nấm có dạng hình thận, có dạng hình tròn hay hình quạt. Cuống thường cắm không ở giữa mũ nấm mà cắm lệch sang một phía mũ. Hình trụ tròn hay dẹt có thể phân nhánh cuống và cuống có màu khác nhau tuỳ theo loài, loài đỏ thay đổi từ nâu đến đỏ vàng, đỏ cam, mặt trên bóng loáng như đánh vécni, trên mặt mũ có những vân đồng tâm.
  • Thụ tầng màu trắng ngà, khi già ngả màu nâu vàng, mang nhiều lỗ nhỏ li ti là các ống thụ tầng mang bào tử. Bào tử loài xích chi hình trứng, được bao bọc bởi 2 lớp màng, màng ngoài nhẵn, không màu, màng trong màu gỉ sắt, lỗ nẩy mầm có hình gai nhọn.
  • Toàn nấm gồm những sợi nấm không mầu, trong sáng, đường kính 1-3mm, có phân nhánh.

Phân bố, thu hái và chế biến

Linh chi thường thấy mọc hoang dại ở các vùng núi cao lạnh ở một số tỉnh của Trung Quốc (Tứ xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây…)

Gần đây, trên cơ sở những giống cây hoang dại người ta đã tổ chức trồng theo qui mô công nghiệp để đáp ứng nhu cầu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngoài Trung Quốc, Nhật Bản cũng đã tiến hành trồng nhưng khí hậu không thuận tiện như Trung Quốc.

  • Ở nước ta, một số cơ sở đã bắt đầu trồng nấm linh chi để dùng trong nước và xuất khẩu.
  • Người ta thu hoạch nấm, phơi sấy khô rồi sử dụng bào chế các dạng bột, thuốc nước ngọt hay đông khô…

Thành phần hoá học

  • Mặc dầu mới được đưa vào sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc vào 20 năm gần đây, nhưng nhiều viện nghiên cứu thuộc các tỉnh khác nhau ở Trung Quốc đã nghiên cứu nhưng cũng chưa tìm được hoạt chất. Chúng tôi kê sau đây kết quả nghiên cứu của một số cơ sở:
  • Viện nghiên cứu tỉnh Quảng Đông nghiên cứu thành phần hoá học của nấm linh chi mọc hoang dại thấy: Nước 12-13%, lignin 13-14%, hợp chất có N 1,6-2,1 %, hợp chất phenol 0,08-0,1%, tro 0,022%, xelluloza 54-56%, chất béo 1,9-2%, chất khử 4-5%, hợp chất steroit 0,14-0,16%. Có tài liệu cho biết trong nấm linh chi có 0,3-0,4 % ergosterol (C28H44O).
  • Viện nghiên cứu kháng sinh Tứ Xuyên tìm thấy axit amin, protein, saponin, steroit.
  • Học viện y học Bắc Kinh phát hiện đường khử và đường kép axit amin, dầu béo.
  • Theo những công trình nghiên cứu mới nhất của Viện nghiên cứu linh chi hoang dại của toàn Trung Quốc thì trong hỗn hợp 6 loại linh chi có hàm lượng germanium cao hơn lượng germanium có trong nhân sâm từ 5 đến 8 lần. Germanium giúp khí huyết lưu thông, các tế bào hấp thu oxy tốt hơn. Lượng polysacarit cao có trong linh chi tăng cường sự miễn dịch của cơ thể, làm mạnh gan, cô lập và diệt các tế bào ung thư. Axit ganoderic có tác dụng chống dị ứng và chống viêm.

Tác dụng dược lý

Tác dụng của nấm linh chi đối với hệ tuần hoàn:

  • Ổn định huyết áp
  • Lọc sạch máu, tăng cường tuần hoàn máu, giảm mệt mỏi, hỗ trợ thần kinh.
  • Chống đau đầu và tứ chi.
  • Điều hòa kinh nguyệt.
  • Làm da dẻ hồng hào, chống các bệnh ngoài da như dị ứng, trứng cá.

Vị thuốc Nấm linh chi

Vị thuốc Nấm linh chi 1

Hình ảnh nấm linh chi

Tính vị: Vị đắng tính hàn

Quy Kinh: Tâm, Phế, Can, Thận

Công dụng:

Tính chất và tác dụng của nấm linh chi theo Thần nông bản thảo và Bản thảo cương mục như sau:

  • Thanh chi tính bình, không độc chủ trị sáng mắt, bổ can khí, an thần, tăng trí nhớ, cường khí, chữa viêm gan cấp và mãn tính.
  • Hồng chi (xích chi, đơn chi) vị đắng, tính bình, không độc, tăng trí nhớ, chữa các bệnh thuộc về huyết và thần kinh, tim.
  • Hoàng chi (kim chi) vị ngọt, tính bình, không độc, làm mạnh hệ thống miễn dịch.
  • Hắc chi (huyền chi) vị mặn, tính bình, không độc, chủ trị bí tiểu tiện, sỏi thận, bệnh ở cơ quan bài tiết.
  • Bạch chi (ngọc chi) vị cay, tính bình, không độc, chủ trị hen, ích phế khí.
  • Tử chi (linh chi tím) vị ngọt, tính ôn, không có độc, chủ trị đau nhức khớp xương, gân cốt. 2

Liều dùng

6~12g

Bài thuốc có vị Nấm linh chi

  • Trị mất ngủ hay quên: Linh chi tán bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 3g chiêu với nước ấm.
  • Trị phế hư hen suyễn: Linh chi và nhân sâm lượng hai thứ bằng nhau, tán bột mịn trộn đều, ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 3g, chiêu với nước còn ấm.
  • Viêm gan đã hồi phục: Linh chi 10g, vịt 1 con. Thịt vịt, lòng tạng, rửa sạch, cho chung với linh chi hầm nhừ bằng lửa nhỏ, chia ra ăn thịt vịt, uống nước hết trong ngày.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nam-linh-chi.html/feed 0
Mít https://tracuuduoclieu.vn/mit.html https://tracuuduoclieu.vn/mit.html#respond Tue, 19 Jun 2018 18:33:27 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/mit/ Mô tả cây
  • Mít là một cây to, cao có thể tới hơn 30m, với cành non rất nhiều lông ở ngọn.
  • Lá đơn, nguyên, dày, dài 9-22cm, rộng 4-9cm, cuống 1-1,5cm.
  • Hoa đơn tính, cùng gốc. Cụm hoa cái mọc ngay trên thân hay trên cành, dài 5-8cm, dày 2-5cm. Cụm hoa đực hình chùy.
  • Qủa phức to, dài 30-60cm, mặt tua tủa những gai ngắn. Khi chín vỏ vẫn giữ màu xanh lục hay hơi ngả vàng. Thịt quả chín màu vàng nhạt, vị ngọt rất thơm, hạt rất nhiều

Phân bố, thu hái và chế biến

  • Mít được trồng khắp các tỉnh nước ta. Còn thấy cả ở Lào, Campuchia. Chủ yếu người ta trồng để lấy quả ăn. Qủa non luộc làm rau ăn. Hạt nướng hay luộc ăn ngon, thơm và bùi, gỗ quý, màu vàng, không mọt, dùng làm nhà, làm đồ đạc và tạc tượng.
  • Dùng làm thuốc, thường người ta chỉ hay dùng lá mít tươi. Khi dùng đến mới hái.
  • Một số nơi dùng gỗ mít làm thuốc an thần, dùng gỗ tươi hay khô.

Thành phần

  • Thành phần hóa học trong toàn cây và lá có chất nhựa mủ màu trắng không rất dính. Trong múi mít khô có 11-15% đường, (fructoza, glocuza), một ít tinh dầu mùi thơm, 1,60% protit, 1-2% muối khoáng bao gồm canxi (18mg%) photpho (25mt%), sắt (0,4mg%), caroten (0,14mg%), vitamin B2 (0,04%), Vitamin C (4mg%) trong hạt mít có 70% tinh bột, 5,2% protit 0,62% chất béo, 1,4% muối khoáng.
  • Ngoài ra trong hạt mít có chất men ức chế men tiêu hóa trong ruột nên ăn mít dễ bị đầy hơi, trung tiện nhiều năm 1990, một số nhà nghiên cứu đang tìm cách sử dụng hạt mít chữa bệnh Sida trong gỗ mít có những hợp chất flavon như artocarpin, isoartocarpin, artocarpetin, artocarpanon, xyanomaclurin và xycloartocarpin

Công dụng và liều dùng

  • Lá mít làm thuốc lợi sữa cho trâu, bò, dê lợn và người. Phụ nữ đẻ ít sữa dùng lá mít nấu uống làm cho ra sữa hoặc thêm sữa. Ngày dùng 30-40g lá tươi.
  • Gỗ và lá mít còn được dùng làm thuốc an thần, chữa huyết áp cao hay chữa những trường hợp co quắp; Mài gỗ mít lên miếng đá nháp hay chỗ nháp của trôn bát, có thêm ít nước. Nước sẽ vẫn đục do chất gỗ và nhựa mít. Uống thứ nước đục này. Ngày dùng từ 6-10g gỗ mít mài như trên.
  • Có người còn dùng lá mít chữa ỉa chảy, táo bón, ăn không tiêu.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/mit.html/feed 0