Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Thu, 26 Jun 2025 04:40:12 +0700 vi hourly 1 Lược vàng https://tracuuduoclieu.vn/luoc-vang.html https://tracuuduoclieu.vn/luoc-vang.html#respond Fri, 01 Oct 2021 06:40:32 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=63021 Mô tả
  • Cây thảo nhiều năm, thân mọng nước có thể dài tới 100 cm hay hơn, phân nhánh với thân bò ở gốc.
  • Lá mọc tập trung ở ngọn thân, rải rác ở phía dưới, dạng mác thuôn, dài 18-25 cm, rộng 3,5-4cm, cuống lá có gân rõ, ôm thân, có lông mịn và thường có sọc tía.
  • Hoa mọc thành cụm 2-3 hoa dạng xim trên phát hoa hình chùy dài tới 60 cm, mỗi cặp xim được ôm bởi các lá bắc dạng răng cưa (3 răng) dài 10-15mm; lá đài trong suốt, màu trắng, khô xác, dạng mác, dài 5-6mm; cánh hoa bóng, trong suốt, màu trắng, mỏng, có dạng trứng hẹp; nhị 6.
  • Mùa ra hoa: mùa xuân.

Phân bố sinh thái

Cây lược vàng có nguồn gốc từ vùng Châu Mỹ. Sau này nó được du nhập qua tới Nga, và về Việt Nam. Cây xuất hiện gần như trên cả nước. Với hình dáng dẹp, cây vừa làm cảnh, vừa làm thuốc thảo dược.

Bộ phận dùng

Cây thường lấy cả phần thân và lá cây lược vàng làm thuốc, thường thu hái quanh năm, sau đó đem về phơi khô để dùng dần.

Thành phần hóa học

Năm 2008, nhóm nghiên cứu của TS. Trịnh Thị Điệp tại Viện Dược liệu đã định tính sơ bộ thành phần hoá học của thân, lá Lược vàng và cho biết chúng có chứa flavonoit, carotenoit, phytosterol, axit hữu cơ, chất béo, đường tự do và polysacharit.

Tác dụng dược lý

Công bố của nhóm nghiên cứu TS. Shantanova, Viện Sinh học Thực nghiệm Nga cũng chứng tỏ tác dụng hạ nồng độ malondialdehyde (MDA-sản phẩm của quá trình peroxy-hoá lipid) của nước ép búp non Lược vàng trên động vật thực nghiệm.

Nghiên cứu này cũng cho thấy dịch ép nước có tác dụng tăng hoạt động của cơ, liều uống 1 lần 10,0 mL/kg sẽ tăng khả năng chạy lên 21% so với nhóm kiểm soát. Sự gia tăng đáng kể trong độ bền sau khi lặp đi lặp lại việc cho chuột thử nghiệm với liều là 5,0 mL/kg trong 7 ngày. Thời gian chạy tăng lên gần gấp ba lần so với nhóm kiểm soát.

Một nhóm các nhà khoa học tại trường ĐH Ben-Gurion, Israel đã cho thấy dịch chiết cồn lá Lược vàng có tác dụng ức chế virus HSV-1 và HSV-2 ở nồng độ EC 50 là 16,5 và 15 µg/mL. Trong khi đó dịch chiết nước không có tác dụng với HSV-1 và HSV-2 nhưng có tác dụng với chủng VZV với liều EC 50 là 17 µg/mL.

Tính vị công năng

Theo Đông y, cây lược vàng có tính mát, vị nhạt, chua nhẹ và ít độc, quy kinh phế. Có tác dụng trong việc giải độc, thanh nhiệt, cầm máu, hóa đờm và tiêu viêm.

Công dụng

Ở Việt Nam, cây Lược vàng được người dân sử dụng theo kinh nghiệm hoặc truyền miệng để chữa khỏi (hoặc giảm nhẹ) các bệnh như: viêm răng lợi, sâu răng, viêm họng, viêm mũi dị ứng, viêm xoang, ho, cảm cúm, viêm phế quản, hen, viêm tai giữa, thối tai, băng huyết, cầm máu vết thương, bỏng, đau đầu mất ngủ, viêm bờ mi mắt, đau mắt đỏ, mẩn ngứa, trĩ, đi ngoài, đau dạ dày, táo bón, gút, ung thư vú, ung thư dạ dày

Ngoài ra, Lược vàng còn có hoạt tính chống oxy hóa, chống tiểu đường, hạ mỡ máu. Người dân sử dụng cây Lược vàng bằng các phương pháp hết sức đơn giản như:

  • Nhai lá, nuốt cả nước lẫn bã;
  • Giã nát để đắp vết thương, xoa bóp, dịt băng cầm máu, làm tan máu tụ, bầm tím;
  • Dùng lá, thân cây, vòi và rễ ngâm rượu trắng;
  • Phơi khô lá pha nước sôi, nấu nước uống như uống nước chè;
  • Nấu cao, sau đó pha loãng uống, bôi da;

Bài thuốc có vị lược vàng

  1. Chữa đau răng, sưng mộng chân răng: nhai, ngậm lá lược vàng ngày 3 lần sáng, trưa, tối cho đến khỏi vẫn sử dụng cho triệt để.
  2. Bệnh huyết áp thấp: uống rượu ngâm lược vàng 2 buổi trưa, tối trước lúc ăn, mỗi lần khoảng 15 giọt, buổi sáng sớm, tối ăn 1 lá, kết hợp đi bộ.
  3. Viêm khớp: kết hợp vừa uống vừa xoa bóp bên ngoài. Hoặc cũng có thể dùng lá lược vàng giã nhỏ rồi đắp lên mỗi lần bị đau khớp, một ngày chỉ cần đắp vài lần là khỏi, không cần uống.
  4. Bệnh trĩ: nhai lá lược vàng già, mỗi ngày khoảng 3 lá.
  5. Bị thương chảy máu hoặc bị bầm tím, rạn xương, ảnh hưởng đến xương: Dùng lálược vàng già nhai sau đó đắp lên vừng bị thương, băng bó lại, hoặc dùng rượu cây lược vàng xoa bóp lên chỗ thương,vết mổ, ngày 2- lần, mỗi lần xoa bóp khỏang 30 phút.
  6. Chữa sỏi thận: ăn lá hoặc uống rượu Lược Vàng hoặc vữa ăn vừa uống, uống phải có thời gian nghỉ theo 10-5-10-5.
  7. Các bệnh về mắt như đục thủy tỉnh thể mắt, đau mắt hột: dùng lá lược vàng giã nhỏ rồi đắp lên, ngày 2 lần, mỗi lần 30 phút.
  8. Các bệnh về miệng như lở miệng, nhiệt miệng: dùng lá lược vàng nhai, ngậm mỗi ngày 3 lần mỗi lần một lá, khoảng 20 – 30 phút.
  9. Các bệnh về xương, khớp như bị đau, thoái hóa xương ở các loại xương cổ, xương cột sống, xương tay, chân: dùng rượu lược vàng xoa bóp ngày 3 lần, mỗi lần khoảng 20 phút, vừa ăn ngày 3 lá 3 bữa sáng, chiều, tối. Dùng cho đến sau khi khỏi vẫn dùng để triệt để bệnh.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/luoc-vang.html/feed 0
Qua lâu trắng https://tracuuduoclieu.vn/qua-lau-trang.html https://tracuuduoclieu.vn/qua-lau-trang.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:20:51 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57126 Mô tả
  • Thân mảnh có rãnh, phân cảnh nhiều, nhẵn hoặc hơi có lông.
  • Lá mọc so le, hình bầu dục rộng hoặc hình thận, dài 7 – 10 cm, rộng 8 – 12 cm, chia 5 thùy nhọn, mép khía răng, gốc hình tim, mặt trên có lông, nhiều hơn ở mặt dưới, gân lá mảnh; cuống lá có rãnh và ít lông, dài 2 -7 cm; tua cuốn chia 2-3 nhánh.
  • Cụm hoa ở kẽ lá, đơn tính khác gốc, cụm hoa đực dài 6-16 cm, có 8-15 hoa màu trắng, đài hình ống, loe ở đầu, tràng có cánh hình bầu dục – tam giác, nhị tụ họp thành đầu hình trụ; cụm hoa cái có hoa đơn độc, cuống dài 3 – 12 mm, đại và tràng giống hoa đực; bầu hình elip, có lông mềm.
  • Quả thuôn ở hai đầu, dài 5 – 6 cm, rộng 3,5 – 4 cm, lúc đầu màu lục, có những vạch dọc màu trắng, sau màu đỏ; hạt 8 – 10, thuôn có mép uốn lượn, đầu tù, gốc thắt lại.

Phân bố, sinh thái

Về phân bố của loài ở Việt Nam, hiện có hai tài liệu nêu ra hai quan điểm khác nhau. Trong “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, 1997 ghi qua lâu trắng phân bố từ Lào Cai, Hòa Bình vào đến Gia Lai và Lâm Đồng. Trong khi đó, Nguyễn Hữu Hiến (2003) trong “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” tập II chỉ ghi cây phân bố từ Đồng Nai (Biên Hòa) đến An Giang. Như vậy, về vấn đề này cần có kế hoạch điều tra nghiên cứu thêm.
Trên thế giới, loài này có phân bố ở các nước Ấn Độ, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin và quần đảo Polynesie.

Qua lâu trắng là cây ưa ẩm, ưa sáng và khi còn nhỏ hơi chịu bóng. Cây thường mọc ở ven rừng, dọc theo các bờ khe suối ở cửa rừng, chân đồi cây bụi hoặc nương rẫy.

Bộ phận dùng:

Rễ, hạt

Thành phần hoá học

Hạt chứa 28% dầu béo. Dầu béo chứa acid béo, acid linoleic 19,8%, acid oleic 32,8%, acid béo no 11,9% trong đó có hàm lượng acid arachidic cao. [Sastri et al., The wealth of India, X, 291].

Tác dụng dược lý

Tác dụng dược lý của các protein trong rễ củ cây qua lâu trắng:  Đã chứng minh thực trên thực nghiệm, các protein này có tác dụng gây sảy thai, chống u, có hoạt tính làm bất hoạt ribosom và điều hòa miễn dịch.

Tác dụng ngang kết hồng cầu: Cao hạt của quả qua lâu trắng có tác dụng ngưng kết hồng cầu (heimagglutination) là do trong hạt có một hàm lượng lectin khá.

Tác dụng trên lipid ở gan và máu: Pectin được phân lập từ quả qua lâu trắng cho chuột cống trắng ăn với một chế độ ăn có 5% pectin. Sau 1 tháng, xét nghiệm thấy hàm lượng phospholipid trong gan, cholesterol huyết và acid béo trong máu giảm có ý nghĩa thống kê.

Tác dụng kháng khuẩn: Cao chiết bằng chloroform của rễ cây qua lâu trắng có tác dụng kháng khuẩn có ý nghĩa trênPseudomonas aeruginosa, tuy nhiên tác dụng trên Staphylococcus aureus lại không có ý nghĩa.

Tác dụng ức chế sự phát triển tế bào ung thư: Cao chiết từ rễ củ cây qua lâu trắng có tác dụng ức chế sự phát triển u báng gây ra do các dòng tế bào ung thư Sarcoma – 180 và JTC -26.

Tính vị, công năng

Rễ củ cây qua lâu trắng tính hàn, hơi độc, có công năng thanh nhiệt giải độc, lợi thủy, tiêu thũng, tiêu sưng, tán ứ.

Công dụng

Nhân dân dùng rễ củ và toàn cây để chữa viêm họng, viêm amidan cấp; viêm gan vàng da, thu dạ dày, đau do chấn thương, đại tiện bỉ, tiểu tiện không lợi, làm dị khát, bế kinh, kinh nguyệt đinh nhọt, lở loét, rắn cắn, bỏng nước sôi. Ngày dùng 6 – 10g sắc lấy nước uống.

Để chữa đau sau khi mổ, đau do vết thương, chấn thương, đau dạ dày, dùng rễ củ, mỗi lần 0,3 – 0,6g nhai và nuốt. Dùng nhiều lần trong ngày.

Để chữa mụn nhọt, lở loét ngoài da, dùng rễ củ tươi, giã nát, thêm rượu, lấy dịch bôi ngoài. Nếu là củ khô, nghiền thành bột, chiếu với rượu, lấy dịch bôi.

Để chữa rắn cắn, lấy rễ củ qua nhân trắng 18-30g, sắc lấy nước uống dần.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/qua-lau-trang.html/feed 0
Rau diếp đắng https://tracuuduoclieu.vn/rau-diep-dang.html https://tracuuduoclieu.vn/rau-diep-dang.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:19:15 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57138 Mô tả
  • Cây thảo, sống hằng năm, cao 0,5 – 0,6m, có nhựa trắng như sữa. Thân thẳng, nhẵn.
  • Lá mọc so le, hình bầu dục, chia thuỳ và răng không đều, hai mặt nhẵn, lá gốc và lá giữa có bẹ ôm thân và tai ngắn.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thành ngủ hoặc tán gồm nhiều đầu, có cuống nhăn và bóng; đầu hình trứng; lá bắc xếp thành 6 – 7 hàng hoa toàn hình lưỡi, mào lông mềm, màu trắng, tràng có lưỡi hẹp, cụt đầu, 5 răng, ống tràng có lông; nhị 5, có tại; bầu nhẵn.
  • Quả bế dẹt, hơi có cạnh, có khía rõ.

Phân bố, sinh thái

Chi Sonchus L. trên thế giới có khoảng 50 loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm, vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới vùng núi ở bắc bán cầu. Ở Việt Nam, chi này có 4 loài, cũng tập trung chủ yếu ở vùng núi và đôi khi thấy ở vùng trung du (phía Bắc). Loài rau diếp đắng hiện đã ghi nhận về phân bố ở một số địa phương như: Lai Châu (Phong Thổ, Sìn Hồ); Lào Cai (Sa Pa, Bắc Hà); Hà Giang (Quản Bạ, Đồng Văn); Cao Bằng (Quảng Hoà), Lạng Sơn (Tràng Định, Cao Lộc); Yên Bái (Mù Cang Chải), Kon Tum (Đăk Glei) và Lâm Đồng (Đà Lạt). Trên thế giới, cây phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Indonesia.

Cây ưa ẩm, ưa sáng và thích nghi cao ở vùng có khí hậu ẩm mát của miền núi. Rau diếp đắng thường mọc lẫn với các cỏ thấp ở ven đường đi, trên nương rẫy và các bãi hoang quanh làng bản.

Bộ phận dùng:

Toàn cây.

Thành phần hoá học

  • Lá và ngọn có 2,4% carbohydrat, 1,2% protein, 0,8% lipid, vitamin C (Võ Văn Chi, 1997).
  • Rau diếp đắng chứa một disaccharid (I), scopoletin, esculetin, alcol cerylic, α – amyrin và β – sitosterol, tinh dầu bao gồm các acid heptanoic và hexanoic, ȣ – terpineol, geraniol, geranial, butanol, bornyl acetat và anethol, còn phần không bay hơi chứa acid 3β, 25 – epoxy 3 – hydroxyolean – 18 -en – 28 – oic.
  • Lá non chứa 4,1mg% vitamin C.

Tác dụng dược lý

Nước sắc lá rau diếp đắng cho chuột cống trắng uống làm tăng hiệu suất tiết niệu trung bình ở chuột uống thuốc so với ở chuột đối chứng, như vậy nước sắc này có tác dụng lợi tiểu nhẹ (Caceres A. et al., 1987).

Tính vị, công năng

Rau diếp đắng có vị đắng, tính mát, hơi có độc, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết, chỉ huyết.

Công dụng

Rau diếp đắng thường được dùng trị: viêm ruột lý, viêm gan, xơ gan, viêm ruột thừa, viêm vú, viêm miệng, viêm họng, viêm amidan, chảy máu dạ dày nôn ra máu, chảy máu cam, ho ra máu, xuất huyết tử cung. Liều dùng 15 – 30g sắc uống.

Dùng ngoài trị nhọt định và viêm mủ da, viêm tai giữa. Nghiền cây tươi ép lấy dịch hoặc sắc lấy nước đặc để dùng ngoài.

Rau diếp đắng được dùng làm rau ăn ở Việt Nam, Indonesia, Philippin và cả ở châu Phi. Người ta dùng ăn như rau xà lách, có tác dụng trị cảm mạo và dùng cho phụ nữ đang cho con bú ăn để có nhiều sữa.

  • Ở châu Phi, nước sắc phần trên mặt đất của cây được dùng uống trị bệnh trĩ. Nước sắc này cũng có tác dụng lọc máu và chống đái tháo đường.
  • Ở một số nước Đông Nam Á, nhựa cây rau diếp đắng được dùng làm một thuốc tẩy mạnh.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rau-diep-dang.html/feed 0
Rau trai đắng https://tracuuduoclieu.vn/rau-trai-dang.html https://tracuuduoclieu.vn/rau-trai-dang.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:18:04 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57148 Mô tả
  • Cây thảo, cao 25 – 50 cm. Thân phân nhánh nhiều, có lông, bén rễ ở những đốt sát mặt đất thành chùm.
  • Lá mọc so le, hình mác thuôn, dài 2 – 10 cm, rộng 1 – 2 cm, gốc tròn có bẹ hình ống hẹp, đầu nhọn, gân song song, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm không cuống hoặc cuống rất ngắn, mang 2 – 4 hoa màu xanh lơ đựng trong một cái mo; đài 3 răng rời nhau; tràng 3 cánh; nhị 3 – 4, có nhị kép; bầu 3 ô.
  • Quả nang, 3 mảnh vỏ, bao bọc bởi bao hoa, dài 5 – 6 mm, rộng 4 – 6 mm; hạt hình khối nhiều mặt.
  • Mùa hoa quả: tháng 6 – 8.

Phân bố, sinh thái

Chi Commelina L. ở Việt Nam có 8 loài, trong đó hiện đã biết tới 6 loài có tên gọi chung là “thài hài” hay “rau trai” và đều được dùng làm thuốc. Tuy nhiên, loài thài lài trên đây khác với 2 loài thài lài trắng (C.diffusa Burm. f.) và thài lài tía (C.zebrina Hort. ex Loudon) ở chỗ có kích thước nhỏ hơn, cây thường mọc bò nơi đất ẩm hoặc ngập nước tạm thời và chỉ có phần ngọn vươn thăng lên. Rau trai đắng có vùng phân bố rộng rãi ở hầu hết các nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á. Ở Việt Nam, cây cũng có mặt tại các tỉnh từ vùng núi thấp xuống đến trung du và cả ở đồng bằng.

Cây đặc biệt ưa ẩm và ưa sáng, sinh trưởng phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm, đến mùa đông lạnh (ở các tỉnh phía Bắc) có hiện tượng bán tàn lụi.

Bộ phận dùng

Toàn cây.

Thành phần hoá học

  • Toàn cây chứa delphin, commelinin, flavocommelin, owobanin (Võ Văn Chi, 1997).
  • Hoa chứa sắc tố delphinidin diglucosid (thành phần chính), acid p. coumaric và awabanol (Sastri et al., The wealth of India II, 1950).
  • Hạt chứa dầu béo (Võ Văn Chi, 1997).

Tác dụng dược lý

Tác dụng chống tăng glucose huyết:

Cao chiết nước toàn cây rau trai đắng có tác dụng làm giảm sự tăng glucose huyết gây nên do dùng liều cao maltose hoặc tinh bột ở chuột nhắt trắng có glucose huyết bình thường hoặc ở chuột bị đái tháo đường do streptozocin. Tác dụng này còn mạnh hơn tác dụng của acarbose là một thuốc chữa đái tháo đường do ức chế enzym alphaglucosidase vẫn được dùng trong Tây y (Youn et al., 2004). Ngoài ra dùng dài ngày cao rau trai đắng có thể làm cho sự tăng glucose huyết chuột nhắt trắng bị đái tháo đường do streptozocin trở về bình thường (Youn et al., 2004).

Tác dụng làm giảm glucose huyết của rau trai đắng đã được nghiên cứu ở chuột cống trắng dòng Sprague Dawley bị tăng glucose huyết do streptozocin bằng cách cho chuột ăn loại thức ăn có trộn 10% phần trên mặt đất phơi khô, tán thành bột của rau trai đắng. Đã định lượng cả glucose huyết và cholesterol trong huyết thanh, đồng thời cả glucose niệu. Kết quả thấy glucose huyết giảm, glucose niệu âm tính ở tuần thứ tư, còn cholesterol không thay đổi [Prosea II, 2001: 182].

Tác dụng trên tế bào ung thư: Cao chiết bằng benzen từ toàn cây rau trai đắng có tác dụng độc trên các tế bào ung thư bạch cầu dòng Leuk HL60 và Leuk L1210 [Prosea, 2001: 182]

Tác dụng kháng khuẩn: Acid parahydroxycinnamic là một thành phần của chất commelinin được phân lập từ rau trai đắng có tác dụng kháng khuẩn.

Các tác dụng khác: Rau trai đăng đã được nghiên cứu, thấy có tác dụng hạ sốt, lợi tiểu và chống phù (Kee, 1999: 393).

Tính vị, công năng

Toàn cây rau trai đắng vị ngọt, nhạt, hơi đang tinh hàn, có công năng thanh nhiệt, giải độc, lợi thuỷ, tiêu thũng.

Công dụng

Rau trai đắng được dùng chữa cảm cúm, sốt, viêm nhiễm đường hô hấp trên, sưng amidan, viêm họng, nhiễm khuẩn đường tiết niệu sinh dục, kiết lỵ, ỉa chảy. Còn dùng để giải khát, chữa đái tháo đường, lợi tiểu, phù thũng. Liều dùng 20 – 30g rau trai đắng khô hoặc 40 – 50g tươi, sắc lấy nước uống. Có thể dùng 90 – 120g tươi, rửa sạch, giã nát, chắt lấy nước uống, ngày 2 lần.

Dùng ngoài trị viêm da, da có mủ, ngứa, mụn nhọt, đầu gối khớp xương sưng đau. Lấy cây tươi, giã nát, đắp khi bị rắn rết cắn, bọ cạp đốt, lấy cả cây (bỏ rễ) tươi 15 – 20g rửa sạch, nhai, nuốt nước, bã đắp lên vết cắn, ngày 2 lần.

Ở Trung Quốc, nhân dân dùng rau trai đắng (tên Trung Quốc của vị thuốc là áp chích thảo) để chữa cảm cúm, cảm lạnh, giải độc, chữa nhiễm khuẩn tiết niệu, lỵ, viêm ruột cấp. Còn được dùng để lợi tiểu, chữa báng, phù. Liều dùng hàng ngày 10 – 15g, có thể dùng đến 60g, sắc nước uống, dùng luôn 3 – 5 ngày. Để chữa viêm amidan, viêm họng, dùng rau trai đắng sắc lấy nước, xúc miệng và nuốt dần dần [Kee, 1999: 393], [Foster et al.,200):190].

Bài thuốc có rau trai đắng

1. Chữa viêm cầu thận cấp, phù thũng, đái ít

Rau trai đắng, cỏ xước, mã đề, mỗi vị 30g. Sắc nước uống, ngày một thang.

2. Chữa phù do suy tim, phong thấp, viêm khớp (bài thuốc của Diệp Quyết Tuyền)

Rau trai đắng 15g (dùng tươi 30g tốt hơn), xích tiểu đậu (đậu đỏ Phaseolus kangularis) 50g hạt khô. Nấu kỹ lên rồi ăn, uống cả nước, ngày một lần, dùng luôn nhiều ngày.

3. Chữa viêm đường hô hấp trên

Rau trai đắng, bồ công anh, dâu tằm, mỗi vị 30g, sắc nước uống.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rau-trai-dang.html/feed 0
Cây Sú https://tracuuduoclieu.vn/cay-su.html https://tracuuduoclieu.vn/cay-su.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:12:50 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57172 Mô tả
  • Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao 1- 4m, phân nhánh nhiều, nhẵn. Cành có vỏ đôi khi hơi đen.
  • Lá hình bầu dục, gốc thuôn, đầu tròn, mặt trên nhẵn, mặt dưới điểm nhiều tuyến, cuống lá hơi lõm ở mặt trên.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân cành thành, không cuống hoặc có cuống rất ngắn; hoa màu trắng, thơm; đài có 5 răng rời nhau; tràng hợp ở gốc, 5 cánh có lông ở họng; nhị 5, chỉ nhị dính nhau ở gốc, bầu hình bầu dục, vòi nhụy to, nhỏ dần thành một đầu nhụy hình chấm.
  • Quả nang hình trụ, cong lại thành hình cũng có vòi và các lá đài tồn tại, màu nâu sáng, có khía dọc, mở thành 2 van, hạt hình trụ, hơi cong.
  • Mùa hoa: tháng 11 – 4; mùa quả: tháng 5 – 8.

Phân bố, sinh thái

Chi Aegiceras Gaertn, trên thế giới chỉ có 2 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới châu Á và Australia, ở Việt Nam chi này chỉ có 1 loài cây số kể trên. Sú phân bố chủ yếu ở các tỉnh có cửa sông, dọc theo bờ biển từ Quảng Ninh, Hải Phòng vào đến mũi Cà Mau, cụ thể như Quảng Ninh (Hà Cối, Vân Đồn); Hải Phòng (Thuỷ Nguyên); Thái Bình, Nam Định (Giao Thuỷ, Hải Hậu); Thanh Hoá, Nghệ An (Vinh), Phú Yên (Tuy Hoà), Khánh Hoà (Ninh Hoà, Nha Trang)… Trong đất liền, có ở Lào Cai và Hoà Bình [Từ điển cây thuốc Việt Nam, 1997 và Danh lục các loài thực vật Việt Nam. Tập II, 2003].

Sú là cây ưa sáng, thường mọc tập trung trên đất phù sa mềm ở cửa sông hay các đầm phá ven biển. Cây thích nghi cao trong môi trường nước mặn, nước lợ và cả ở nước ngọt. Cây trưởng thành ra hoa quả hàng năm, tái sinh tự nhiên tốt từ hạt (thường vẫn gọi là quả).

Bộ phận sử dụng

Vỏ, lá.

Thành phần hoá học

  • Vỏ, lá, quả đều có saponin (vỏ: 7 – 8%, lá 0,5% và quả 1,5%).
  • Vỏ thân chứa α – spinasterol, stigmasterol, acid syringic, agicerin.
  • Vỏ còn chứa aegioeradienol, aegiceradiol, tanin 6%, isorhamnetin.

Tác dụng dược lý

Tác dụng độc với cá: Cao chiết từ cành và thân của cây sú có tác dụng độc với cá (thử với loài Tilapia nilotica). Hoạt chất độc với cá đã xác định được là 5 – O – methylembelin. Chất này làm chết cá ở nồng độ 1 phần triệu trong thời gian 75 phút (Gomez et al., 1989).

Tác dụng độc trên tế bào ung thư: Penicillenol Al và B1 có tác dụng độc trên dòng tế bào HL – 60 (bạch cầu của bệnh đa bạch cầu tiền tủy bào cấp).

Nghiên cứu độc tính cấp: Cao khô cây sú được xác định độc tính cấp trên chuột trắng dùng đường tiêm phúc mạc. Kết quả LD50 = 250 mg/kg, chứng tỏ cây có độc (Dhawan et al., 1977).

Tác dụng chống viêm: Cao thân cây sú có tác dụng chống viêm. Một trong những cơ chế gây tác dụng chống viêm là ức chế các enzym chuyển hoá acid arachidonic (có trong phospholipid màng tế bào) thành các chất trung gian gây viêm, trong cao, có chất ức chế cyclooxygenase có chất ức chế lipoxygenase (12 lipoxygenase và 5 – lipoxygenase) và có chất ức chế cả hai enzym (Roome và Dar et al., 2008b).

Tác dụng bảo vệ gan: Cao cây sú cũng được nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan trên tổn thương gan do CCL4 ở chuột cống trắng.

Công dụng

Nhân dân dùng vỏ cây sú để chữa viêm miệng, viêm lợi. Lấy vỏ, thái nhỏ nấu với nước, lấy nước súc miệng hoặc ngậm rồi nhổ ra. Thuốc độc, không được nuốt.

Lá được dùng nấu nước để gội đầu, nhất là cho phụ nữ. Vỏ cây sú được dùng để duốc cá, vì trong vỏ có tỷ lệ saponin rất cao (7 – 8%) rất độc với cá. Cây sú được trồng nhiều để bảo vệ để ở ven biển.

  • Ở Indonesia, vỏ cây sú cũng được dùng để Quốc cá, lá non được dùng để ăn thay rau [Medicinal herb index và Indonesia, 1995: 189].
  • Ở Ấn Độ cũng cho rằng vỏ cây chứa saponin rất độc với cá nên dùng để duốc cá [Chopra et al., 2001:8]. Saponin vỏ sú có tác dụng phá huyết gấp 10 lần các saponin bình thường [Perry và Metzger, 1980: 282].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/cay-su.html/feed 0
Hoa chùm ớt https://tracuuduoclieu.vn/hoa-chum-ot.html https://tracuuduoclieu.vn/hoa-chum-ot.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:58:45 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=56620 Mô tả
  • Dây leo, dài hàng mét. Thân mảnh có tua cuốn.
  • Lá kép mọc đổi gồm 2 – 3 lá chét hình trứng, gốc tròn, đầu thuôn nhọn, lá chét giữa thường biến thành hình chỉ, hai mặt nhẵn; cuống có lông.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thành chuy; hoa màu vàng da cam mọc rủ xuống như chùm ớt; đài hình chuông, có răng nhỏ có lông: tràng hợp thành ống dài, hẹp, hơi cong, cánh hoa thường gập xuống bầu có 2 ô.
  • Quả nang dài và nhỏ.
  • Mùa ra hoa quả: tháng 1 – 4.

Phân bố, sinh thái

Chi Pyrostegia Presl. chỉ có 1 loài ở Việt Nam là cây hoa chùm ớt. Đó cũng là cây được nhập trồng.

Hoa chùm ớt là cây ưa sáng, có thể mọc được trên nhiều loại đất, cây trồng phải có giàn, hoặc giá thể leo. Cây ra hoa rất nhiều vào mùa khô (ở miền Nam), hiện chưa quan sát thấy quả. Cây hoa chùm ớt có khả năng tái sinh dinh dưỡng khoẻ tử phần thân, cành còn lại sau khi cắt, hoặc từ các đoạn thân cành đem giảm xuống đất.

Bộ phận dùng

Toàn cây

Thành phần hóa học

  • Theo Gusman Antonio Barion et al., flavonoid tập trung ở cánh hoa màu vàng.
  • Hoa màu vàng cam có nhiều sucrose, nhiều acid amin, nhiều sucrose, nhiều acid amin, nhiều carotenoid ở cánh hóa.
  • Cây chùm ớt chứa β – sitosterol, n – hentriacontan, acacetin – 7 – O – β – D -glucopyranosid và meso – inositol.

Tác dụng dược lý

Tác dụng kiểu vitamin A:

Màu vàng và vàng cam của cánh hoà cây hoa chùm ớt không phải là do 3 – deoxyanthocyan mà là do carotenoid (Horborme 1.B, 1967, Phytochemistry. Vol 6. No 12, 1643 – 1651). Trong cơ thể, carotenoid sẽ chuyển hóa thành vitamin A cần thiết cho sự phát triển của cơ thể, tham gia vào sự tạo ra các vỏ, da, niêm mạc, cũng như võng mạc mắt, làm tăng sức đề kháng của cơ thể chống nhiễm khuẩn.

Tính vị, công năng

Hoa chùm ớt có vị ngọt, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, lợi hầu, nhuận phế, chỉ khái, Thân, lá có vị đắng hơi chát, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, lợi hầu.

Công dụng

Hoa chùm ớt được dùng để phá kết hạch ở phổi, chữa ho, họng sưng đau. Liều dùng 15 – 30g sắc uống. Hoa có thể tán thành bột, mỗi lần uống 3g, ngày 2-3 lần.

  • Ở Vân Nam (Trung Quốc), hoa chùm ớt được dùng trị lao phổi, ho, hầu họng sưng đau, viêm nhánh khí quản, viêm gan.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/hoa-chum-ot.html/feed 0
Hành tăm https://tracuuduoclieu.vn/hanh-tam.html https://tracuuduoclieu.vn/hanh-tam.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:58:12 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=56616 Mô tả
  • Cây thảo nhỏ, sống nhiều năm, dạng hành, thường chỉ cao 10 – 20 cm, đôi khi 30 cm.
  • Thân hành màu trắng, thuôn nhỏ như ngón tay, đường kính khoảng 1 – 2 cm, bao bọc bởi nhiều vảy mỏng và dai.
  • Lá mọc thành túm thưa, hình trụ rỗng, rất nhỏ.
  • Cụm hoa dạng đấu, mang rất nhiều hoa có cuống ngắn, bao hoa gồm 6 thuỳ đều nhau, đầu nhọn, nhị nằm ở gốc bao hoa.
  • Quả ít gặp.

Phân bố, sinh thái

Cũng giống như một vài loại hành khác, hành tăm cũng được giả thiết có nguồn gốc ở vùng Địa Trung Hải, sau lan ra các vùng lãnh thổ khác trên thế giới và hiện được trồng chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, có những giống cũng được trồng ở châu Âu.

Hành tăm ở Việt Nam là cây trồng quen thuộc của nhân dân ở một số tỉnh miền núi và trung du phía bắc. Cây cũng được trồng ở đồng bằng và một số địa phương ở vùng núi tại phía nam. Song so với hành hoa và các giống hành củ thì hành tăm được trồng ít hơn nhiều. Đồng bào Tày, Nùng, Dao ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên… thường trồng hành tăm ở gia đình và có người trồng ở ruộng rau, với diện tích lớn hơn để bán. Về mùi vị của hành tăm gần giống hành hoa, nhưng ít cay và thơm hơn, nên khi chế biến để ăn người ta thường cho nhiều hơn (đôi khi lấy cả rễ) có khi thay rau xanh.

Hành tăm là cây ưa ẩm, ưa sáng và ra vùng có khí hậu mát mẻ. Cây ra hoa quả ngay trong năm và hạt giống là nguồn giống chủ yếu để gieo trồng. Tuy nhiên, người ta cũng có thể trồng bằng các củ nhánh (hành) già.

Cách trồng

Ở Việt Nam hành tăm được trồng ở một số địa phương.

Trồng hành tăm muốn có năng suất cao người ta phải chọn đất màu mỡ, cát pha, cao ráo, thoát nước. Hành có thể trồng xen, trồng gối vào các loại rau màu khác.

  • Hành tăm nhân giống bằng hạt hoặc bằng củ. Nếu trồng bằng củ thì khi hành già vào khoảng tháng 1 – 2 dọc hành tàn lụi, người ta lấy những khóm hành già đều củ, không có sâu bệnh. Nhổ cả rễ, không được rửa nước cứ thế đem về phơi rồi rũ sạch đất, sau đó buộc lại đem treo cạnh bếp nấu để có khói tránh thối mọt, đến vụ trồng sẽ tách ra thành từng nhánh để trồng.
  • Thời vụ trồng hành tăm nếu trồng sớm vào tháng 8, 9 ở những chân ruộng gặt sớm, còn trồng xen hay trồng gối thường vào tháng 9 – 10.
  • Đất trồng hành tăm nếu trồng độc canh phải cày bừa kỹ, lên thành luống cao 20 cm, mặt luống rộng 70 – 80 cm. Phân bón lót cho 1ha cần 15 – 20 tấn phân chuồng loại mục, 1 – 1,5 tấn tro bếp, 250 kg supe lân. Nếu thiếu tro bếp thì thay bằng 150 – 200 kg kali.
  • Khoảng cách trồng độc canh 20 – 20 cm, còn trồng xen, trồng gối tuỳ theo cây trồng chính.
  • Hành tăm là cây ngắn ngày, từ khi trồng đến khi thu hoạch chừng khoảng 50 – 60 ngày, do đó việc xới xáo, bón thúc hết sức cần thiết. Điều đáng chú ý đối với hành tăm là lượng tro bếp và độ ẩm của đất.
  • Thời gian thu hoạch chừng 3 tháng kể từ khi trồng. Sản lượng tươi đạt từ 25 – 27 tấn cho 1 hecta.

Bộ phận dùng

Toàn cây, tươi.

Thành phần hóa học

Hạt chứa các hợp chất khi thuỷ phân bằng men cho acid glutamic và các amino acid S(pro – 1. enyl) cystein, cystein nulfoxrd (CA. 1963, 68, 71354, CA, 1968, 66, 1129134) một chất tan trong nước tương tự như chất abscimic acid từ căn hành (CA, 1974,80, 93141m).

Trong các loài allium hầu hết chứa các cystein sulphosid: methiin, alliin, isoalliin và propiin.

Tác dụng dược lý

Tác dụng ức chế tập kết tiểu cầu:

Các amid acid N – p – coumaroyltyramin và N – trans – feruloyltyramin, acid lunuloric và acid p – coumaric, tất cả các hợp chất không chứa lưu huỳnh phân lập từ phân đoạn trong ethyl acetat của củ hành tăm, được chứng minh có tác dụng ức chế prostaglandin và thromboxan synthetase. So cánh với aspirin, các hợp chất từ hành tăm có tác dụng mạnh hơn. Adenosid phân lập từ phân đoạn tan trong ” – butanol của củ hành tăm thể hiện hoạt tính ức chế đối với sự kết tập tiểu cầu người in vitro. Ngoài ra, các saponin chimenosid từ hành tăm ức chế sự kết tập tiểu cầu người gây bởi ADP, tác dụng này có thể so sánh được với aspirin (de Padua L. S et al., 1999: 93 – 98].

Tác dụng trên vi sinh vật:

Tinh dầu và cao chiết ethanol hành tăm có tác dụng ức chế nấm Candida albicans với nồng độ ức chế thấp nhất là 2 mg/ml, chứng tỏ hành tăm có hoạt tính này yếu (Duarte M.CT et al., 2005). Tinh dầu có tác dụng ức chế yếu Escherichia coli (Durate M,CT et al., 2007). Cao chiết ethanol 95% là hành tăm có hoạt tính ức chế trực khuẩn lao in vitro (Gautam R et al., 2007).

Tác dụng chống oxy hóa:

Cao methanol phần trên mặt đất của hành tăm được thử nghiệm về hoạt tính chống oxy hoá biểu thị ở tác dụng ức chế sự peroxy hoá acid linoleic, so sánh với quercetin và dl – α – tocopherol. Hành tăm (phần trên mặt đất, có tác dụng chống oxy hoá với nồng độ ức chế 50% (IC50) thấp hơn nồng độ này của dl – α – tocopherol nhưng cao hơn nồng độ của quercetin (Souri E et al., 2004).

Trong nghiên cứu tác dụng chống oxy hoá của củ, lá và cuống của hành tăm, đã xác định hoạt độ các enzym chống oxy hoá, superoxyd dismutase, catalase, peroxydase, glutathion peroxydase, và định lượng malonyldialdehyd, các gốc superoxyd, hydroxyl, glutathion khử và cả hàm lượng flavonoid toàn phần, các clorophyl a và b, carotenoid, vitamin C và protein hoà tan. Các kết quả nghiên cứu cho thấy cao chiết từ tất cả các bộ phận của cây thể hiện hoạt tính chống oxy hoá. Hoạt tính chống oxy hoá cao nhất trong lá (Stafner D et al., 2004).

Tác dụng chống tế bào ung thư:

Đã chứng minh các loài Allium trong đó có hành tâm có thể giúp ngăn cản các bệnh ung thư, tim mạch và sự lão hoá. Đã áp dụng phương pháp quang phổ cộng hưởng điện tử xoay tròn để theo dõi sự giảm các gốc oxy khi có mặt cao chiết hành tăm trong chất đệm phosphat. Các kết quả cho thấy là hành tăm có tác dụng chống oxy hoá mạnh do chứa hàm lượng cao flavonoid toàn phần, carotenoid, clorophyl và lượng rất thấp các gốc oxy độc (Stainer D et al., 2006).

Tác dụng khác:

Hành tăm có tác dụng trị giun sán, tăng đục, giảm chướng bụng, làm dễ tiêu, lợi tiểu, long đờm, hạ huyết áp và kích thích [Duke J.A. et al., 2002: 191 – 192].

Tính vị, công năng

Hành tăm có vị đắng, cay, mùi hăng nồng, tính ấm. Có tác dụng giải cảm, làm ra mồ hôi, hành khi, hạ đàm, lợi tiểu, giải độc, sát trùng.

Công dụng

Hành tăm thường được dùng làm gia vị, có mùi vị tương tự như hành hoa. Thường dùng làm thuốc giải cảm trúng phong, thấp nhiệt, bệnh thời khí, ôn dịch, nóng rét, nhức đầu, ngạt mũi, ho tức ngực, chữa đầy bụng, bị đại tiểu tiện và dùng làm thuốc an thai. Cũng dùng chữa rắn độc cắn. Ngày dùng 12 – 24g [Võ Văn Chi, 1997: 546].

Trong y học cổ truyền Trung Quốc, hành tăm được dùng trị sốt, đau dạ dày và nhiễm khuẩn mắt. Hành tăm được coi là có tác dụng điều trị đau thắt ngực, huyết ứ và có trong thành phần một số chế phẩm cổ truyền. Củ hành tăm được dùng để dự phòng chứng huyết khối và để điều trị suy tim [de Padua L.S. et al., 1999: 93 – 98]. Nhân dân Ấn Độ dùng hành tăm làm thuốc long đờm, trị hen và viêm phế quản (Gautam R et al., 2007).

Bài thuốc có hành tăm

  • Trị cảm hàn: Hành tăm giã nát, hòa với nước dùng thông trong và đánh gió bên ngoài.
  • Chữa ăn trúng độc: Hành tăm giã nát, cho thêm rượu uống.
  • Trị bị đái chướng đầy: Hành tăm giã giập sao nóng, đắp lên trên vùng bàng quang.
  • Trị trúng phong cấm khẩu: Hành tăm 20 củ giã nhỏ, vắt lấy nước, dùng lông gà xoa vào cổ sẽ mửa nhớt ra.
  • Trị rắn độc, sâu bọ cắn: Hành tăm 7 củ, nhai nuốt nước, bã đắp vào nơi bị cắn, để điều trị cấp cứu ban đầu, rồi tiếp tục điều trị bằng phương pháp của y học hiện đại [Võ Văn Chi, 1997: 546].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/hanh-tam.html/feed 0
Kháo lông https://tracuuduoclieu.vn/khao-long.html https://tracuuduoclieu.vn/khao-long.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:49:03 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=56697 Mô tả
  • Cây gỗ nhỏ hoặc dạng bụi. Cành có lông.
  • Lá mọc so le, hình trái xoan hoặc bầu dục – thuôn, dài 7,5 – 12,5 cm, rộng 2,2 – 4,5 cm, gốc tròn, đầu thuôn thành mũi nhọn, mép thường gập xuống dưới, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới có lông màu xám nhạt, gân lá nổi rõ; cuống lá dài 1 – 1,2 cm, có lông, có rãnh.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn và đầu cành thành chùy ngắn dạng xim, dài 2 – 3 cm hoặc hơn, phủ một lớp lông dày màu nâu nhạt; lá bắc dài, hẹp và có lông: bao hoa gồm 6 phiến có lông ở mặt ngoài, nhăn ở mặt trong, 3 phiên ngoài hơi hẹp hơn; nhị 9, 3 cái phía ngoài không có tuyến, chỉ nhị có lông ở gốc, 3 cái phía trong có 2 tuyến hình thận; bầu nhẵn, noãn hình trứng.
  • Quả mọng, đường kính 4 mm, khi chín màu đỏ tía.
  • Mùa hoa: tháng 10 – 12, mùa quả tháng 2 -3.

Phân bố, sinh thái

Chi Machilus Ness. có 21 loài ở Việt Nam, trong đó có 3 – 4 loài được dùng làm thuốc, kể cả loài kháo lông (Nguyễn Kim Đào, 2003). Kháo lông phân bố ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Sơn La, Hoà Bình, Quảng Trị… Trên thế giới có ở Trung Quốc và có thể cả Lào.

Kháo lông thuộc loài cây gỗ nhỡ, thường mọc rải rác ở ven rừng núi đá vôi hoặc núi đất. Cây cũng thấy trong các quần hệ thứ sinh trên đất sau nương rẫy hoặc đồi cây bụi. Cây mọc ở đồi cây bụi thường sinh trưởng kém, phân cành sớm và có chiều cao chỉ vài mét.

Kháo lông ra hoa quả hằng năm vào đầu mùa động, quả già tồn tại đến tận mùa xuân năm sau, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Gỗ thân khác lông dùng làm trụ mỏ và trong xây dựng, vỏ có chất nhớt dùng làm gôm và bột hương (nhang).

Bộ phận dùng: Vỏ.

Tính vị, công năng

Vỏ cây và vỏ rễ kháo lông có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, tán ứ, lợi hầu, chỉ huyết [Trung dược từ hải, 1996, tập 2, tr. 1593].

Vỏ cây có tác dụng tiêu viêm, giải độc [Lê Quý Ngưu, Trần Như Đức, 1995].

Công dụng

Vỏ kháo lông được dùng chữa viêm xoang miệng, viêm họng, viêm màng bồ đào, đòn ngã tổn thương, gãy xương, ngoại thương xuất huyết.

  • Vỏ cây và tinh dầu được dùng làm thuốc chữa cảm gió. Liều dùng 15 – 30g vỏ sắc uống. Dùng ngoài, bột vỏ cây kháo lông dùng uống hoặc phối hợp với lá tươi giã nát, làm thành bánh đập bỏ đi xương (liều dùng vừa đủ).
  • Bột vỏ kháo lông phơi khô, dùng làm nhang để thắp cho mùi thơm dễ chịu.
  • Gỗ rất tốt, không mối mọt, dùng để làm đồ gia đình. Dầu hạt dùng trong công nghiệp.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/khao-long.html/feed 0
Cải sen https://tracuuduoclieu.vn/cai-sen.html https://tracuuduoclieu.vn/cai-sen.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:44:36 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=55875 Mô tả
  • Cây thảo, sống một năm hay hai năm, cao đến 1m. Thân hình trụ, nhẵn hoặc hơi có lông, màu lục.
  • Lá mọc so le, có bẹ to, hình bầu dục – mác thuôn, dài 30 – 40 cm, những lá phía dưới nguyên hoặc xẻ, lá phía trên ít xẻ hơn, mép lá lượn sóng, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới nhạt.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân hoặc đầu cành thành chùm dài; hoa nhỏ màu trắng hoặc hơi vàng, có 6 nhị, 4 dài và 2 ngắn.
  • Quả hình trụ, dài 2 – 4 cm, đầu có mỏ dài, hạt hình cầu, vỏ màu nâu đen hay đỏ nâu.

Phân bố, sinh thái

Cải sen được trồng từ cổ xưa ở vùng Trung Âu và Trung Quốc. Cây được nhập trồng ở Việt Nam vào thời gian nào chưa rõ. Song chắc chắn là cây có nguồn gốc từ vùng ôn đới ấm, vì cây trồng ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu cũng vào vụ đông – xuân, với nền nhiệt độ trung bình từ 15 – 24°C.

Cải sen là cây ưa ẩm, mọc nhanh. Vòng đời của cây từ khi gieo hạt đến khi có quả già, chỉ vào khoảng trên 100 ngày. Do là cây được nhập nội vào Việt Nam đã lâu, cùng với quá trình chọn lọc và di chuyển vùng trồng, nên trong loài cải sen hiện nay cũng có nhiều giống địa phương khác hẳn nhau.

Cách trồng

Cải sen là cây ngắn ngày, ưa ẩm nhưng không chịu được hạn và úng. Cây thích nghi với các loại đất nhẹ, tơi xốp, thoát nước, tốt nhất là loại đất cát pha. Trồng vào mùa đông xuân, có thể cả mùa hè.

  • Cải sen được gieo trồng bằng hạt bằng cách gieo vãi, gieo theo rạch, trên luống, hoặc các vật nhỏ.
  • Cần phải làm đất ải, cày, bừa hay cuốc cho tơi nhỏ, làm thành luống cao 15 – 20cm, rộng 70 – 90cm cắt rạch ngay trên mặt luống. Sau đó dùng phân chuồng được 1 với trấu thật ai rắc lên các rạch rồi gieo hạt.
  • Trên mặt luống phủ trấu hay rơm, rạ để khi tưới hay gặp mưa không bị trôi hạt. Chăm sóc chủ yếu là tưới nước, nhổ cỏ, bón thúc phần bằng cách pha nước tưới vào gốc hoặc rắc phân vi sinh tổng hợp.
  • Có thể trồng cải sen được nhiều lứa trong một vụ vì một lứa cải chỉ chiếm đất chừng 35 – 45 ngày là thu hoạch.

Bộ phận sử dụng

Lá và hạt.

Thành phần hoá học

Cải sen chứa quercitrin, vitamin K, amyloid, một polysaccharid có độ phân nhánh cao, một loại 12s globulin, 3 – hydroxycarbofuran, ester của acid isothiocyanic, acid n – eicos – 11 – encic, sitosterol, campesterol, brassicasterol, 24 methylchotesta – 5. 22E – dien – 3 – ol, trans – dehydrocampesterol, acid erucic, vitamin E, sinapin, glucosinat [Trung được từ hải II, 1996: 781].

Hat chứa thiocyanat, PhEt (2-hydroxyhexyl) ester 82% và dẫn chất isothiocyanat [CA 125: 8842w].

Tác dụng dược lý

Tác dụng chống oxy hoá:

Cải sen có đoạn plasmid trong nhân tế bào, có khả năng tổng hợp glutathion reductase là enzyme có vai trò rất quan trọng bảo vệ tế bào chống lại các tác nhân oxy hoá [Ho Sung Yoon et al., 2005, Biochem. Biophys. ResearchCommuni., vol.326, 3(21): 613-6231]

Tính vị, công năng

  • Hạt cây cải sen còn được gọi là vân đài tử, có vị nhạt, không mùi, có tác dụng phá huyết, kết tán, tiêu thũng, tiêu viêm.
  • Thân lá hơi cay, tính mát, có tác dụng kiện vị.

Công dụng

Lá cải sen giã nát, đắp ngoài trị áp xe, ung thũng. Rễ và lá để kích thích tiêu hoá, thông mật, chống thôn. Rễ và hạt được dùng chữa chảy máu chân răng, viêm lợi, bệnh scorbut.

Hạt và hoa trị mụn nhọt, đẻ xong đau bụng. Dầu hạt chữa thấp khớp, sưng đau. Liều dùng hàng ngày: 6 – 9g hạt.

Trong thực phẩm, lá cài sen được dùng để luộc, nấu canh hoặc làm dưa để ăn.

Bài thuốc có vị cải sen

Chữa chảy máu chân răng, viêm lợi:

Hạt cải sen, nghiền nát, ép lấy dầu, trộn với muối, lấy bàn chải răng tẩm thuốc rồi chải vào răng [Chatterjee và Pakrashi, 1997, The treatise on Indian med. plants, vol.1: 142, NXB NISC, New Delhi]

Chữa thấp khớp, đau cơ, cứng cổ:

Lấy dầu hạt cải sen trộn với camphor (tỷ lệ 1/10 – 1/5) làm thành thuốc xoa để xoa lên chỗ đau. Còn xoa lên ngực khi bị viêm phế quản, hoặc xoa lên thái dương, trán, mũi khi bị cảm cúm.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/cai-sen.html/feed 0
Gáo tròn https://tracuuduoclieu.vn/gao-tron.html https://tracuuduoclieu.vn/gao-tron.html#respond Wed, 30 Jun 2021 07:27:23 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=56562 Mô tả
  • Cây bụi nhỏ, cao 3 – 4m, có khi hơn. Cành mảnh có nhiều lỗ bì, màu xám.
  • Lá mọc đối, hình giáo, gốc thuôn, đầu tù hơi nhọn, có khi lõm, mép nguyên lượn sóng, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt, là kèm nhỏ khía thành hai thuỷ nhọn.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành đầu tròn trên một cuống dài, lá bắc hình giáo nhọn, có lông, hoa nhiều màu trắng, đài có 4 – 5 răng thuôn tù; tràng hình ống, có 4 – 5 cánh nhẵn; nhị 4 – 5, đính ở họng tràng, chỉ nhị rất ngắn, bao phấn hình dải: bầu có 2 ô, mỗi ô 4 noãn.
  • Quả nang, hình nêm, khi khô mở theo hai khe dài ở gốc; hạt nhỏ, gốc thuôn, đầu xẻ đôi.
  • Mùa hoa: tháng 5 – 7, mùa quả: tháng 8 – 9.

Phân bố, sinh thái

Chi Adina Salisb. ở Việt Nam có 4 loài. Loài gáo tròn trên hiện mới ghi nhận được về phân bố một số tỉnh miền núi từ miền Trung trở ra, bao gồm Lào Cai (Sa Pa), Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên – Huế. Trên thế giới, loài này có ở Trung Quốc và Nhật Bản [Danh lục các loài thực vật Việt Nam, III, 2005].

Gáo tròn thuộc loại cây bụi hoặc gỗ nhỏ, trung sinh; thường mọc rải rác ở rừng thí sinh, nhất là nơi cửa rừng, dọc theo các bờ khe suối. Cây ra hoa quả hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Gỗ của loài cây này khá dai, nên thường được khai thác để làm nông cụ hoặc trong các xây dựng nhỏ, như làm bếp, làm chuồng gia súc,…

Bộ phận dùng

Vỏ cây và rễ.

Thành phần hóa học

Vỏ cây chứa 7 – 9% tanin và 0,09% adinin là một sắc tố màu vàng. Theo Phạm Hoàng Hộ (2006), gáo tròn có chứa acid betulinic là chất có tác dụng chống ung thư.

Tác dụng dược lý

Thử lâm sàng chữa lỵ do amip:

Đã thử trên 324 bệnh nhân bị kiết lỵ do amip. Dùng hoa và quả non mỗi lần 15g sắc lấy nước uống, ngày 2 lần, uống liền 5 – 7 ngày cho kết quả tốt [Trung y tạp chí, 1966, số 6: 32; theo Chang, 1992:61].

Tác dụng trên tế bào ung thư:

Mẫu thử là cao thiết bằng cách sắc với nước toàn cây cả rễ cây gáo tròn. Thử in vitro thấy cao nước ức chế được tế bào ung thư cổ tử cung, tế bào u Sarcoma – SAK và tế bào ung thư Walker – 256. Thí nghiệm in vivo gây u báng bằng tế bào Sarcoma – 1 80 ở chuột cống trắng, thấy cao nước làm giảm thể tích u bảng 54% [Chang, 1992: 61].

Tác dụng trên tế bào ung thư dòng JTC – 26:

Thí nghiệm in vitro chỉ rằng, nước sắc toàn cây (cả rễ) gáo tròn gây ức chế 90% sự phát triển tế bào ung thư [Chang, 1992; 61].

Tính vị, công năng

  • Gáo tròn vị đắng chát, tính mát, có công năng thanh nhiệt, giải độc, tán ứ, tiêu sưng viêm, ngừng tả lỵ, giảm đau.
  • Tài liệu Trung Quốc [Chang, 1992: 61] ghi: Gáo tròn vị cay, tính ấm, mùi thơm, không độc; còn sách “Thường dụng Trung thảo dược thủ sách” ghi: gáo tròn vị ngọt chát, tính mát, có công năng thanh nhiệt giải độc, lợi thấp, hành ứ, tiêu thũng [TDTH, 1993, I: 976].

Công dụng

Rễ cây gáo tròn được dùng trị cảm mạo, sốt cao, viêm nhiễm đường hô hấp trên, viêm họng, viêm tuyến mang tai. Hoa và quà dùng trị lỵ, viêm dạ dày, ruột cấp tính.

Lá được dùng trị đón ngã tổn thương, mụn nhọt, eczema. Liều dùng rễ 15 – 30g, hoa và quả non 10 – 15g. có thể dùng toàn cây 30g. Dùng ngoài, lấy lá tươi rửa sạch, giã nát, đắp lên chỗ tổn thương.

Để chữa cảm sốt, viêm đường hô hấp trên, sưng quai bị, dùng rễ cây 15 – 30g hoặc toàn cây 30 g sắc lấy nước uống, ngày 1 thang.

Để chữa kiết lỵ, viêm ruột, ta chảy, dùng 10 – 15g hoa, quả non sắc uống.

Để chữa đụng giập, đòn ngã tổn thương, đau nhức, mụn nhọt, eczema, dùng lá tươi 20 – 30g sắc uống; kết hợp lấy lá tươi, giã nát, đắp lên chỗ tổn thương.

  • Sách “Trung dược từ điển” còn giải thích: gáo tròn là thuốc hội khỉ và bổ thận, nên còn được chỉ định chữa chóng mặt hoa mắt, chân tay mỏi rã, di mộng tinh, bất lực.
  • Một tài liệu khác của Trung Quốc [Chang, 1992: 62] ghi: toàn cây và rễ gạo tròn có tác dụng cải thiện được trí não, làm ấm và làm mình thân kinh, mạnh tim và dạ dày, có tác dụng làm dịu sự co thắt cơ trơn nên có hiệu quả trong điều trị la chảy kéo dài, hội chứng suy kiệt do kiết lỵ; các hội chứng mất máu nhiều như ta ra máu, băng huyết, bệnh bạch cầu, nôn ra huyết. Ngoài ra, còn có tác dụng trừ phong nên được dùng chữa sốt, thoát vị, phong thấp.

Bài thuốc có gáo tròn

Chữa ung thư gan, ung thư dạ dày:

Toàn cây (cả rễ) gáo tròn 120g, toàn cây cỏ seo gà (Pteris multifida Poir.). Sắc lấy nước uống, ngày 1 thang [Chang, 1992: 61].

Chữa u lympho:

Toàn cây gáo tròn (cả rễ), rửa sạch, phơi khô, nghiền thành bột mịn, chế thành viên tròn với mật ong, mỗi ngày uống 1,5 – 3g, uống liền hàng năm, hoặc toàn cây cả rễ gáo tròn 30g, ngâm với 400ml rượu được 10 ngày trở lên, uống mỗi lần 1 thìa canh (15ml); ngày 3 lần, uống liên tục nhiều ngày, hoặc toàn cây cả rễ gáo tròn 45g, sắc với 500ml để còn 250ml, uống mỗi lần 1 thìa canh, cứ nửa giờ 1 lần cho đến hết.

Chữa ung thư đường tiêu hoá:

Rễ gáo tròn 30g, toàn cây Solanum glaba 30g, toàn cây Salvia chinensis 30g, mộc hương (Aucklandia lappa Decie) 9g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống nhiều ngày [Charg, 1992: 61].

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/gao-tron.html/feed 0