Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Thu, 26 Jun 2025 04:40:12 +0700 vi hourly 1 Bại tượng hoa trắng https://tracuuduoclieu.vn/bai-tuong-hoa-trang.html https://tracuuduoclieu.vn/bai-tuong-hoa-trang.html#respond Fri, 31 Dec 2021 04:24:59 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=64071 Bại tượng hoa trắng 1

Patrinia villosa (Thunb.) Juss.

Mô tả

  • Cây thảo cao đến 1m, thân có lồng mềm dài.
  • Lá ở phía dưới thân kép lông chim, lá chét xoan, thuôn cả 2 đầu đến hẹp, mép có răng, 2 mặt có lông; lá ở phía trên đơn, có cuống dài.
  • Chùy hoa dạng ngủ ở ngọn. Hoa nhỏ màu trắng; đài là ống có răng nhỏ; tràng có ống dài mang 5 tại gần bằng nhau; nhị 5, đính trên ống tràng; bầu 3 ô.
  • Quả khô dính vào lá bắc mỏng, xoay tròn, mép nguyên, đỉnh có 3 thuỳ; hạt 1.
  • Ra hoa tháng 5-6, có quả tháng 1-2 năm sau.

Phân bố, sinh thái

Cây mọc rải rác trên các trảng cỏ.

Phân bố: Cao Bằng, Lạng Sơn. Còn có ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản…

Bộ phận dùng:

  • Toàn cây – Herba Patriniae, gọi là Bại tượng thảo
  • Thu hái vào mùa hạ trước khi có hoa nở, rửa sạch thái nhỏ phơi trong râm.

Tính vị, công năng

Vị cay, đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khư ứ bài nung.

Công dụng

Thường dùng trị: Viêm ruột thừa, kiết lỵ, viêm dạ dày ruột, viêm gan, viêm kết mạc, sản hậu huyết ứ đau bụng, mụn nhọt, ghẻ ngứa.

 

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/bai-tuong-hoa-trang.html/feed 0
Anh thảo https://tracuuduoclieu.vn/anh-thao.html https://tracuuduoclieu.vn/anh-thao.html#respond Thu, 02 Dec 2021 08:41:35 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=50985 Oenothera biennis L. (Hoa anh thảo) là một loài thực vật có giá trị về mặt dược lý và dinh dưỡng, đồng thời có giá trị kinh tế cao. Đây cũng là một trong những mô hình cây trồng đầu tiên được nghiên cứu trong di truyền học và sinh học tế bào. Hiện nay, O. biennis chủ yếu được trồng để lấy hạt, từ đó chiết xuất dầu hoa anh thảo (EPO), giàu axit γ-linolenic. EPO được thương mại hóa trong nhiều sản phẩm khác nhau, từ thực phẩm bổ sung dinh dưỡng đến mỹ phẩm. Toàn bộ cây có giá trị dược lý, được sử dụng để điều trị hen suyễn, ho, đau ruột, viêm và có tác dụng giảm đau.

Đặc điểm mô tả

Thân: Cây cỏ, sống 2 năm, chiều cao thân khảng 150 cm.

Lá: Lá hình mác, dài 5-20cm, rộng 1-2,5cm. Năm thứ nhất lá mọc thành cụm tròn hình hoa thị, năm thứ 2 mọc thành hình xoắn ốc quanh thân.

Hoa: Hoa lưỡng tính (có cả nhụy đực và nhụy cái), màu vàng, mọc ở ngọn. Đài 2, đầu xẻ 2 thùy có nhiều lông trắng nhỏ. Tràng 4, màu vàng, cánh tràng hình trái tim cỡ 2,5-5cm. Nhị 8, vàng mảnh; nhụy có núm tròn. Hoa chỉ nở buổi tối và lưu lại đến trưa hôm sau. Bên trong hoa có một cấu trúc đặc biệt là hướng dẫn mật hoa, không thể nhìn thấy bằng mắt thường nhưng hiện rõ dưới ánh sáng tia cực tím, giúp thu hút các loài thụ phấn như bướm đêm, bướm ngày và ong.

Quả: Quả của cây là dạng nang, dài 2–4 cm (khoảng 0,75–1,5 inch), rộng 4–6 mm, chứa rất nhiều hạt nhỏ (dài 1–2 mm). Khi chín, quả tách ra thành bốn phần để giải phóng hạt.

Hạt: Hạt là thức ăn quan trọng của chim, côn trùng.

Mùa hoa: Tháng 4-6.

Phân bố

Phân bố 1

Có khoảng 145 loài trong chi Oenothera L., xuất hiện ở vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới ở miền Bắc và Nam Mỹ. Có khoảng 70 loài hiện đang có mặt ở châu Âu.

Loài chiếm số lượng nhiều nhất trong họ Oenothera L. là Oenothera biennis L.. Đây cũng là loài được nghiên cứu nhiều nhất về các tác dụng sinh học. Anh thảo đã được thấy có lợi trong điều trị nhiều bệnh.

Oenothera biennis L. được trồng đầu tiên bởi các thổ dân ở Bắc Mỹ. Họ đã sử dụng cây để điều trị các triệu chứng sưng trong cơ thể và các vấn đề sức khỏe khác. Dầu các loài Oenothera đã được người Ấn Độ sử dụng để làm giảm các rối loạn về da.

  • Năm 1614, các nhà thực vật học từ Virginia đã mang đến châu Âu để nghiên cứu.
  • Oenothera được giới thiệu ở châu Âu với cái tên ‘king’s cure-all” (vua chữa bách bệnh).
  • Các sách y văn thảo dược cổ đã mô tả Hoa anh thảo có tác dụng làm se và an thần, hữu ích trong điều trị rối loạn tiêu hóa, rối loạn ho, hen suyễn, các khó chịu trên nữ giới và chữa lành vết thương.
  • Năm 1919, một acid linolenic mới đã được tìm thấy bởi Heiduschka và Lüft khi họ phân tích dầu hạt; họ đặt tên là acid gamma-linolenic (GLA).

Cây Oenothera biennis L. (anh thảo) ưa nắng, và những nơi khô cằn với đất mùn và xuất hiện ở độ cao dưới 700 mét so với mực nước biển.

Vai trò trong hệ sinh thái

Hoa anh thảo (Oenothera biennis) là một loài cây dễ mọc trong môi trường bị xáo trộn và được xem như một loại cỏ dại. Cây đã được du nhập và thích nghi trên tất cả các châu lục, ngoại trừ châu Nam Cực.

  • Nguồn thức ăn: Hạt của hoa anh thảo là thức ăn quan trọng cho nhiều loài chim, như chim American goldfinch, Northern bobwhite, và mourning dove.
  • Môi trường sống: Cây là vật chủ cho ấu trùng của loài bướm đêm primrose (Schinia florida) và sâu bướm trắng sọc (white-lined sphinx moth). Các loài ong vò vẽ và ong mật cũng thường ghé thăm hoa để lấy mật.
  • Bướm đêm primrose: Loài này đẻ trứng trực tiếp trên hoa anh thảo. Khi trứng nở, ấu trùng sử dụng cây làm nguồn thức ăn chính.

Hạt của loài cây này có khả năng tồn tại lâu dài trong đất, lên đến hơn 70 năm, giúp chúng dễ dàng tái sinh và duy trì quần thể trong tự nhiên.

Sinh trưởng

Hoa anh thảo (Oenothera biennis) thường có chu kỳ sinh trưởng kéo dài 2 năm.

  • Năm đầu tiên, cây phát triển dưới dạng thảo mộc thấp, lan rộng gần mặt đất, cao chỉ vài centimet. Lá cây mọc thành hình hoa thị, phủ lên mặt đất và tích trữ năng lượng trong phần rễ dày.
  • Năm thứ hai, cây vươn cao lên, đạt chiều cao khoảng 1,6 mét (5,2 feet), với thân bán gỗ. Ở giai đoạn này, cây bắt đầu ra hoa và tạo hạt. Sau khi có sương giá đầu tiên, cây thường chết đi, nhưng đôi khi nó có thể mọc thêm một thân mới và tiếp tục phát triển trong năm thứ ba.

Đây là đặc điểm sinh trưởng đặc trưng của loài hoa anh thảo, giúp cây thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên.

Phương pháp nhân giống

Cây hương thảo thường được nhân giống bằng các phương pháp như giâm cành, chia cây hoặc dùng phương pháp chiết cành. Hạt giống cũng có thể được sử dụng, nhưng chúng chỉ phát triển tốt dưới điều kiện trồng rất thuận lợi và tỷ lệ nảy mầm của hạt thường chỉ đạt khoảng 10-20%

Thu hoạch

Sau khi cây hương thảo đã phát triển ổn định, các ngọn cành (cách đầu ngọn khoảng 25-30 cm) được thu hoạch một hoặc hai lần mỗi mùa trước khi cây trở nên gỗ hóa (thường là sau khoảng 18 tháng từ khi gieo hạt, nhưng trong một số trường hợp có thể là sau 24 tháng), và sau đó thu hoạch thường xuyên hơn khi cây trưởng thành. Việc thu hoạch thường được thực hiện trước khi cây ra hoa. Nếu mục đích là chiết xuất tinh dầu, cây được cắt khi đã trồng từ 2-3 năm, vào lúc cây bắt đầu ra hoa, khi hàm lượng dầu đạt mức tối đa.

Các bộ phận được sử dụng

  • Lá, vỏ thân, hoa và quả non.
  • Hạt được thu thập khi chín.
  • Đào rễ cây lên vào năm thứ 2.

Thành phần hóa học

Chiết xuất thành phần trên mặt đất của anh thảo:

Chiết xuất methanol phần trên mặt đất của anh thảo chứa chủ yếu là các acid phenolic và các flavonoid.

Các acid phenolic có trong chiết xuất được phân tích bao gồm các hợp chất: acid gallic và các dẫn xuất ester của nó (methyl gallate, galloylglucose, digalloylglucose, và tris-galloylglucose), acid 3-p-feruloylquinic, acid 3-p-coumaroylquinic, acid 4-p-feruloylquinic, pentoside acid caffeic, acid ellagic và các dẫn xuất ester của nó (ví dụ, acid hexagic hexoside và acid ellagic pentoside) và acid valoneic dilactone.

Flavonoid có trong chiết xuất bao gồm những hợp chất: myricetin 3-O-glucuronide, quercetin 3-O-galactoside, quercetin 3-O-glucuronide, quercetin 3-O-glucoside, quercetin pentoside, quercetin dihexoside, quercetin glucuronylhexoside, quercetin 3-O- (2 Từ-galloyl) -glucuronide, kaempferol 3-O-rhamnoglucoside, kaempferol 3-O-glucoside, kaempferol 3-O-glucuronide, kaempferol 3-O- (2 ERIC-galloyl) -glucuronide và kaempferol pentoside.

Chiết xuất thành phần lá của anh thảo:

Thành phần hóa học 1

Chiết xuất lá anh thảo chứa các hợp chất phenolic (ellagitannin và acid caffeoyl tartaric) và flavonoid (quercetin glucuronide và kaempferol glucuronide). Các tannin có trong lá của anh thảo là oenothein A và oenothein B. Các carbohydrate có trong chiết xuất bao gồm arabinose, galactose, glucose, mannose, acid galacturonic và acid glucuronic.

Chiết xuất thành phần rễ anh thảo:

Rễ cây anh thảo có chứa các sterol sau: sitosterol, oenotheralanosterol A, và oenotheralanosterol B. Acid triterpenes maslinic và acid oleanolic cũng có mặt trong rễ, cùng với các carbohydrate sau: arabinose, galactose, glucose, mannose, galacturonic acid và acid glucuronic. Các tannin sau đây cũng được tìm thấy: acid gallic, tetramethylellagic acid, oenostacin và acid 2,7,8-trimethylellagic.

Các chiết xuất methanol của rễ anh thảocũng sở hữu một lượng đáng kể xanthone (9H-xanthen-9-one) và các dẫn xuất của nó, chẳng hạn như dihydroxyprenyl xanthone và cetoleilyl diglucoside, có đặc tính sinh học và dược lý đa dạng.

Chiết xuất thành phần của hạt anh thảo:

Hạt cây anh thảo chứa khoảng 20% ​​dầu. Lượng dầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn như tuổi của hạt giống, giống cây trồng và điều kiện sinh trưởng.

Tác dụng dược lý

Tác dụng trên da

Tác dụng sinh học của dầu anh thảo là nhờ các thành phần và tính chất sinh học của các thành phần trong đó. Vì các thành phần quan trọng nhất về số lượng là các axit béo không bão hòa đa (polyunsaturated fatty acids – PUFA), chủ yếu là axit linoleic (LA) và axit γ-linolenic (GLA) thuộc nhóm axit omega-6.

Linoleic acid đóng một vai trò quan trọng trong chức năng của da, đặc biệt là lớp sừng, trong đó nó là một trong những thành phần chính của lớp lipid.

Điều trị hội chứng tiền kinh nguyệt

Dầu hoa anh thảo đã được nghiên cứu để điều trị các triệu chứng của hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS), gồm đau bụng và thay đổi tâm trạng.

Một đánh giá tổng hợp từ tám nghiên cứu so sánh dầu hoa anh thảo với giả dược cho thấy dầu hoa anh thảo giúp giảm mức độ nghiêm trọng của PMS. Trong khi đó, một nghiên cứu khác về GLA (một loại axit béo omega-6) cũng cho thấy thời gian và mức độ triệu chứng PMS giảm đáng kể.

Điều trị hội chứng tiền mãn kinh, mãn kinh

Dầu hoa anh thảo đã được nghiên cứu như một phương pháp điều trị bốc hỏa trong giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh.

Một nghiên cứu trên 80 phụ nữ mãn kinh so sánh dầu hoa anh thảo với cây thục quỳ đen cho thấy cả hai đều cải thiện mức độ nghiêm trọng của bốc hỏa sau 8 tuần, nhưng cây thục quỳ đen hiệu quả hơn trong việc giảm số lần bốc hỏa.

Một nghiên cứu khác với 170 người dùng dầu hoa anh thảo và giả dược không tìm thấy sự khác biệt về tần suất bốc hỏa, nhưng nhóm sử dụng dầu hoa anh thảo ít bị đổ mồ hôi đêm và có mức độ triệu chứng nhẹ hơn.

Một nghiên cứu sáu tuần với 56 người mãn kinh cho thấy dầu hoa anh thảo giúp giảm mức độ nghiêm trọng của bốc hỏa và cải thiện các hoạt động xã hội, tình dục, mặc dù tần suất bốc hỏa không giảm.

Mặc dù dầu hoa anh thảo có tiềm năng hỗ trợ trong các vấn đề liên quan đến kinh nguyệt và mãn kinh, nhưng cần thêm nhiều nghiên cứu chất lượng cao hơn để xác nhận hiệu quả.

Chống loãng xương

Dầu hoa anh thảo rất giàu chất béo không bão hòa omega-6.

Các nhà nghiên cứu đang quan tâm đến mối liên hệ tiềm năng giữa chất béo không bão hòa và giảm nguy cơ loãng xương. Loãng xương là tình trạng mất khoáng chất xương khiến xương trở nên yếu và dễ gãy. Tình trạng này chủ yếu ảnh hưởng đến những người đã mãn kinh.

Trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã xem xét mối liên hệ giữa axit béo đa không bão hòa và mật độ khoáng xương. Nghiên cứu bao gồm một nghiên cứu kéo dài 18 tháng về việc kết hợp điều trị bằng dầu hoa anh thảo, dầu cá và bổ sung canxi. Kết quả cho thấy sự chậm lại hoặc đảo ngược tình trạng mất xương ở người lớn tuổi dùng thuốc bổ sung so với nhóm đối chứng dùng giả dược.

Trong một nghiên cứu di truyền quy mô lớn, các nhà nghiên cứu đã xem xét thông tin di truyền từ hàng ngàn người. Họ đang tìm kiếm mối liên hệ giữa axit béo omega-6 và mật độ khoáng xương.

Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa axit béo và mật độ khoáng xương nhưng không phải axit béo omega-6. Mặc dù đây là một nghiên cứu di truyền chứ không phải nghiên cứu lâm sàng về một phương pháp điều trị, nhưng nó có thể là một hướng nghiên cứu trong tương lai.

Tác dụng chống dị ứng

Oleum Oenotherae Bienni thêm vào chế độ ăn làm giảm mức độ nghiêm trọng của dị ứng phế quản khi gặp tác nhân dị ứng; các phản ứng ít nghiêm trọng hơn trên động vật thử nghiệm 80 phút sau khi điều trị (giảm 86%) so với những động vật thử nghiệm sau 10 phút (giảm 33%).

Ảnh hưởng đến mức cholesterol và chất béo trung tính

Dầu anh thảo giúp giảm mức cholesterol và chất béo trung tính trong huyết tương và gan. Dầu cũng tăng nồng độ lipoprotein mật độ cao, IgG và bạch cầu trong huyết thanh chuột cho ăn một chế độ ăn thường xuyên chứa 10% dầu cố định trong 6 tuần.

Tác dụng hạ huyết áp

Chuột được cho ăn chế độ ăn chứa 11% dầu anh thảo cố định trong 7 tuần cho thấy sự giảm sự phát triển tự phát của tăng huyết áp. Sử dụng dầu cố định cho chuột (9% chế độ ăn) làm giảm rối loạn nhịp tim do thiếu máu cục bộ.

Tác dụng chống loét

Dầu anh thảo cũng giúp bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi bị hư hại bởi các chất hoại tử (0,6mol/l axit clohydric, 0,2mol/l natri hydroxit và 80% ethanol).

Hiệu quả chưa được chứng minh

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), hiện chưa có bằng chứng đủ mạnh để khẳng định hiệu quả của dầu hoa anh thảo trong việc phòng ngừa hoặc điều trị ung thư, dù đôi khi sản phẩm có thành phần chiết xuất từ loại thảo dược này được quảng cáo với công dụng như vậy.

Công dụng của cây hoa anh thảo

Công dụng của cây hoa anh thảo 1

Ngày nay, hoa anh thảo chủ yếu được biết đến với công dụng làm cảnh, thực phẩm và làm thuốc.

Công dụng làm thực phẩm

Hầu hết các bộ phận của cây hoa anh thảo đều có thể ăn được, với hương vị nhẹ nhàng và dễ chịu:

  • Rễ: Có thể ăn sống hoặc chế biến như khoai tây.
  • Lá: Lá của hoa anh thảo có thể sử dụng từ tháng 4 đến tháng 6 khi cây chưa ra hoa. Dùng sống trong salad hoặc nấu chín như rau chân vịt, thêm vào súp. Người Anishinaabe còn sử dụng lá để pha trà, giúp tăng cường sức khỏe và giảm mệt mỏi.
  • Thân hoa: Nên thu hoạch khi còn non (tháng 6), gọt vỏ rồi ăn sống hoặc chiên.
  • Nụ hoa: Được xem là món ăn ngon, có thể thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 10. Nụ hoa có thể ăn sống trong món salad, ngâm dầu, chiên hoặc nấu súp.
  • Hạt: Hạt có hàm lượng protein khoảng 15%, hàm lượng dầu 24% và chứa khoảng 43% cellulose được sử dụng tương tự như mè rang và bánh ngọt.

Công dụng làm thuốc

Trong y học cổ truyền:

Các bộ lạc cũng sử dụng rễ bên ngoài để điều trị mụn nhọt. Ngoài ra, chúng còn được nhai và cọ xát vào các cơ để cải thiện sức mạnh.

  • Người Mỹ bản địa đã làm thuốc đắp từ cây hoa anh thảo để trị vết bầm tím và vết thương, đồng thời sử dụng nước ép từ thân và lá của nó làm thuốc bôi chữa viêm da. Lá được dùng uống để chữa các bệnh về đường tiêu hóa và viêm họng.
  • Vào thế kỷ 17, dầu hoa anh thảo đã trở thành một phương thuốc dân gian phổ biến ở châu Âu, nơi nó được gọi là “phương thuốc chữa bệnh của vua”.

Trong y học hiện đại:

Dầu anh thảo giàu các loại axit béo thiết yếu, góp phần hình thành các khối của màng tế bào và cung cấp một loạt các hormone và các chất tương tự hormone cần thiết cho cơ thể, giúp duy trì và phát triển các chức năng của trí não, sự tăng trưởng cùng phát triển bình thường của cơ thể.

  • Thực phẩm chức năng từ dầu anh thảo có tác dụng điều trị viêm da dị ứng (một loại bệnh chàm), viêm khớp dạng thấp, hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS), đau vú, các triệu chứng mãn kinh và các bệnh khác.
  • Dầu anh thảo cũng có thể có trong các sản phẩm bôi ngoài da.
  • Nhờ các axit béo thiết yếu, tác dụng của dầu anh thảo sẽ giúp bạn tạo ra một môi trường lành mạnh trong cơ thể để dễ thụ thai.
  • Ngoài ra, thảo dược này còn giúp bạn giảm cân và sản sinh các hormone cân bằng. Hơn nữa, dầu h anh thảo khi được dùng mỗi ngày sẽ giúp tăng dịch nhầy ở cổ tử cung cũng như tăng cường chức năng trao đổi chất.

Xem thêm: [Video] Anh Thảo loài hoa quý tộc châu Âu

Tác dụng phụ của hoa anh thảo

Dầu hoa anh thảo được coi là an toàn nếu sử dụng với liều lượng khuyến cáo. Tuy nhiên, cần lưu ý một số tác dụng phụ và rủi ro:

  • Nguy cơ chảy máu: Dầu có thể làm tăng nguy cơ chảy máu, đặc biệt với những người bị rối loạn đông máu hoặc đang dùng thuốc làm tăng nguy cơ này.
  • Người mắc bệnh lý đặc biệt: Cần thận trọng khi sử dụng nếu bạn có rối loạn co giật, rối loạn tâm thần (hưng cảm) hoặc đang mang thai và cho con bú.
  • Tác dụng phụ thông thường: Sử dụng dầu hoa anh thảo qua đường uống có thể gây đau đầu hoặc buồn nôn.

Tương tác thuốc

Dầu hoa anh thảo có thể tương tác với một số loại thuốc, làm giảm hiệu quả hoặc gây ra tác dụng phụ. Một số loại thuốc có thể tương tác với dầu hoa anh thảo bao gồm:

  • Thuốc chống đông máu (máu loãng) như Warfarin
  • Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như diclofenac, ibuprofen và aspirin
  • Thuốc chống loạn thần như chlorpromazine
  • Thuốc điều trị HIV như lopinavir

Vì vậy, trước khi sử dụng dầu hoa anh thảo, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ, đặc biệt nếu bạn đang sử dụng bất kỳ loại thuốc nào. Bác sĩ sẽ giúp bạn đánh giá các rủi ro tiềm ẩn và đưa ra quyết định phù hợp.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/anh-thao.html/feed 0
Sữa ong chúa https://tracuuduoclieu.vn/sua-ong-chua.html https://tracuuduoclieu.vn/sua-ong-chua.html#respond Sat, 16 Oct 2021 01:47:55 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=63240 Nguồn gốc và đặc điểm sữa ong chúa

Sữa ong chúa là thức ăn duy nhất của ong chúa và các ấu trùng ong, được sản sinh từ tuyến hạch miệng của ong thợ. Ong chúa sử dụng loại thức ăn này cả cuộc đời, còn những ấu trùng ong được ăn sữa ong chúa trong 3 ngày đầu của cuộc đời. Chính vì thế mà gây ra sự khác biệt giữa ong chúa và ong thợ: Tuổi thọ của ong chúa khoảng 5-6 năm, gấp 40 lần so với ong thợ là chỉ sống được từ 30-40 ngày.

Vào thời gian sinh sản, ong chúa có thể để lên đến 2000 quả trứng trong 1 ngày (lớn hơn cả trọng lượng cơ thể của nó). Kích thước cơ thể của ong chúa lớn gấp rưỡi ong thợ, không có giỏ phấn hoa trên chân sau của mình và cũng không có tuyến sáp như ong thợ. Vai trò của ong chúa là duy trì nòi giống và ổn định tổ chức trong tổ do vậy nó có hình dạng cơ thể thích hợp với vai trò đó.

Thu hoạch sữa ong chúa

Thu hoạch sữa ong chúa 1

  • Chuẩn bị các khay chứa các mũ chúa giả được làm bằng sáp ong hoặc cao su. Mỗi mũ chúa giả được nhỏ vào một giọt sữa ong chúa pha loãng với nước cất.
  • Dùng que gắp chuyên dụng, gắp các ấu trùng ong non ở phần đáy của tổ ong và trong mũ chúa giả. Cẩn thận đặt ấu trùng ong nằm lên trên giọt sữa ong chúa đã được đổ vào ở bước trên.
  • Cẩn thận đặt các khay trên vào trong tổ ong. Khay cần được đặt vào chính giữa tổ ong và tách biệt với các khay chứa mật khác.
  • Sau thời gian 72 tiếng từ lúc bắt đầu cho khay chứa mũ chúa vào thì nên thu hoạch. Đây là thời điểm lượng sữa trong các mũ là nhiều nhất.
  • Nhấc các khay chứa mũ ong đã đầy sữa ra để chuẩn bị lấy sữa ong, cạo bỏ lớp sáp bên ngoài.
  • Gắp ấu trùng ong ra khỏi mũ chúa.
  • Dùng một chiếc thìa gỗ lấy sữa ong ra khỏi mũ chúa, bỏ vào trong một chiếc hũ và bảo quản ngay trong tủ lạnh.

Ngoài cách lấy sữa ong chúa trên, còn có một số cách lấy sữa ong chúa khác bằng cách sẽ tạo ra hàng loạt tổ ong chúa bằng cách lấy enzym và những mùi vị từ tổ ong chúa đem trét vào những tổ mới đã chuẩn bị sẵn. Mùi vị của các tổ ong giả đã đánh lừa các chú ong thợ. Khi các chú ong thợ khám phá ra tổ ong đang bị trống chúng liền tăng cường tiết sữa làm thức ăn cho ấu trùng ong chúa.

Nhiều nhà sản xuất với quy mô dạng xuất khẩu, họ có thể tạo hàng loạt ấu trùng ong và đặt máy hút tự động tại các tổ ong chúa lúc còn là ấu trùng. Sự hút sữa liên tục gây thiếu dinh dưỡng cho ấu chúa cũng làm cho các ong thợ bị đánh lừa và tiết sữa liên tục. Do vậy con người thu được nhiều sữa ong chúa hơn.

Thành phần hóa học

Theo nghiên cứu, chất lượng sữa ong chúa phụ thuộc vào chất lượng của đàn ong thợ. Ong thợ khỏe thì sẽ cho sữa chúa với chất lượng cao. Do vậy trong quá trình nuôi ong người ta thường tạo cho ong môi trường sống tự nhiên, khí hậu ôn hòa, nhiều hoa tươi. Khi về mùa đông hoa nở ít người ta thường bổ sung dinh dưỡng cho ong bằng cách cho ăn men bia để tăng hàm lượng protein trong sữa ong chúa.

Thành phần hoá học trong sữa ong chúa rất phong phú và đa dạng với hàm lượng khác nhau. Bên cạnh đó, sữa ong chúa thu hoạch ở mỗi vùng khác nhau thì tỉ lệ phần trăm các nhóm chất thu được cũng khác nhau, nhưng thành phần chính hầu như không thay đổi.

  • Nước: hàm lượng nước trong sữa ong chúa khá ổn định với những nguồn thu hoạch ở nhiều nơi khác nhau, nó chiếm khoảng trên 60%.
  • Protein: Theo một số quan điểm, protein chiếm khoản 27-41% là một trong những phần quan trọng nhất của sữa ong chúa khô. Các axit amin có mặt với hàm lượng phần trăm cao nhất là: prolin, lysin, axit glutamic, p-alanin, phenylalanin, aspartate và serin.
  • Cacbonhydrat: Chiếm khoảng 30% trong sữa ong chúa khô.
  • Axit 10-hydroxy-2-decenoic (10-HDA): Đây là thành phần quan trọng nhất của sữa ong chúa, đồng thời cũng là hoạt chất đặc hiệu để phân biệt thật giả và đánh giá chất lượng của sữa ong chúa. Ở một số nước phát triển, người ta quy định sản phẩm sữa ong chúa phải có hàm lượng 10-HDA tối thiểu là 1,4% với sữa ong chúa tươi và 5% với sữa ong chúa đông khô.
  • Các muối khoáng: chiếm khoảng 0,8-3% trong sữa ong chúa. Các khoáng chất này giảm dần theo thứ tự: K, Ca, Na, Mg, Zn, Fe, Cu và Mn.
  • Các vitamin: vitamin B1 (thiamin), vitamin B2 (riboflavin), axit pantothenoic, biotin, niacin, axit folic, inositol, axetincolin, một lượng nhỏ vitamin C.

Tác dụng dược lý

Tác dụng dược lý 1

Sữa ong chúa giàu protein, chứa tất cả các axit amin thiết yếu, các axít béo không no tốt cho tim mạch. Sữa ong chúa còn chứa nhiều vitamin nhóm B, E, H, collagen,… tất cả đều có lợi cho da. Nếu thoa sữa ong chúa lên da hàng ngày có thể làm da trắng mịn và chống viêm da.

Do sữa ong chúa có tính kháng sinh – chống viêm tự nhiên, nên khi bôi lên da, các nốt mụn sưng viêm sẽ nhanh chóng giảm sưng đỏ, hết đau và hạn chế để lại sẹo thâm. Ngoài ra, các nhà khoa học còn quan sát thấy rằng sữa ong chúa có tính axit hữu cơ nhẹ, thành phần có chứa các BHA tự nhiên, nên khi bôi, đắp mặt nạ sữa ong chúa hàng ngày sẽ giúp tẩy sạch tế bào da chết trên bề mặt da, ngăn ngừa bít tắc lỗ chân lông và làm mờ vết thâm, nám sạm.

Ngoài ra sữa ong chúa còn chứa nhiều hợp chất có thể làm giảm hàm lượng cholesterol. Một đánh giá của các nghiên cứu trên cơ thể người kết luận rằng sử dụng 50-100mg sữa ong chúa mỗi ngày có thể giảm 14% cholesterol và 10% triglycerit. Sử dụng sữa ong chúa thường xuyên có thể ngăn ngừa và làm chậm sự phát triển của xơ vữa động mạch.

Sữa ong chúa chứa 10-HDA là một loại axit không no tự nhiên có thể ức chế các tế bào ung thư, cụ thể là ung thư máu và ung thư vú. Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng 10-HDA làm tăng khả năng miễn dịch hiệu quả.

Trong một số công trình khoa học đã công bố, sữa ong chúa được báo cáo như một tác nhân làm thay đổi miễn dịch trong bệnh Badơdô. Nó cũng được báo cáo là có tác dụng đối với hệ thần kinh đệm và các tế bào tuỷ sống trong hệ thần kinh. Ngoài ra sữa ong chúa còn được sử dụng như một loại thực phẩm chức năng có khả năng chống mệt mỏi, chống dị ứng, chống lão hoá, chống vi khuẩn… rất có lợi cho cơ thể của chúng ta.

Tính vị, công năng

Sữa ong chúa có vị ngọt, hơi chua, hơi khé cổ, có tác dụng bổ dưỡng cao, tăng trọng, kích thích và điều hoà.

Công dụng

Sữa ong chúa được coi là loại thuốc bổ cao cấp có tác dụng kích thích phần giữa của não, tuyến yên dưới não và tuyến thượng thận, tăng cường tuần hoàn huyết dịch và điều hoà chức năng của các cơ quan trong cơ thể bị lão hoá, được dùng cho những người mới ốm dậy, người già yếu, trẻ em suy dinh dưỡng, phụ nữ sau khi sinh đẻ bị thiếu máu, ít sữa, kém ăn, mất ngủ. Thuốc còn có khả năng kìm hãm một số vi khuẩn gây bệnh, giảm hiện tượng stress ở người lao động quá mức và cải thiện hệ thống miễn dịch. Liều dùng thông thường hàng ngày là 2-3 ml.

Hỏi đáp: Uống sữa ong chúa trước khi mang thai có lợi ích gì?

Sữa ong chúa đã được sản xuất dưới dạng biệt dược có tên là Apilat, Apilarnil, Vita – apinol. Viện Bảo vệ sức khỏe người cao tuổi đã thử nghiệm trên lâm sàng thuốc bổ ” Sữa ong chúa – đinh lăng” thấy có tác dụng tốt làm ăn ngon, dễ ngủ, đỡ mỏi mệt, tăng cân, tăng lực cơ, giảm cholesterol. Thuốc gồm có sữa ong chúa (2,5%), dịch chiết rễ đinh lăng (5%), mật ong (15%), cồn (10%) và tá dược vừa đủ 100%.

Sữa ong chúa còn được chế biến thành bột ở dạng đông khô và đóng thành viên, mỗi viên có 0,06g sữa ong chúa dùng để chữa một số bệnh thần kinh, rối loạn tiêu hoá, thiếu máu, đặc biệt đối với trẻ em và người cao tuổi. Để làm cho da dẻ mịn màng, chữa tàn nhang, trứng cá ở phụ nữ, viêm da có mủ, mụn nhọt và chàm nhẹ ở trẻ sơ sinh, có thể dùng dạng kem sữa ong chúa 3% để bôi hàng ngày. Tuy là loại thuốc bổi dưỡng quý hiếm, nhưng sữa ong chúa lại cung cấp cho cơ thể lượng nhiệt năng rất lớn, nên khi dùng phải tuân thủ nghiêm ngặt liều lượng, thời gian điều trị, nhất là đối với người có bệnh cao huyết áp, bệnh về huyết quản.

Theo tài liệu nước ngoài, sữa ong chúa chứa một số thành phần có tác dụng như hormon (nội tiết tố), có khả năng điều hoà kinh nguyệt và kích thích sinh dục trong một số trường hợp. Uống sữa ong chúa thấy bệnh trạng thuyên giảm rõ rệt ở người mắc bệnh liệt rung (Parkinson) và bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ. Còn đối với người bị liệt dương, sữa ong chúa làm khả năng sinh dục dần dần được hồi phục.

Lưu ý:

Người bị dị ứng với mật ong và các sản phẩm từ ong, bị bệnh hen, bệnh Addison do suy giảm về mặt nội tiết của vỏ thượng thận, phụ nữ đang hành kinh cũng không được dùng sữa ong chúa để tránh những phản ứng phụ không có lợi cho sức khoẻ.

Tìm hiểu thêm:

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/sua-ong-chua.html/feed 0
Bạch nhất hồng https://tracuuduoclieu.vn/bach-nhat-hong.html https://tracuuduoclieu.vn/bach-nhat-hong.html#respond Tue, 03 Aug 2021 03:31:30 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57582 Mô tả
  • Cây Bạch nhất hồng hay còn gọi là cây Tử vi
  • Cây nhỡ, cao 3 – 5m. Thân cành hình trụ hoặc 4 cạnh, vỏ nhẵn màu nâu xám.
  • Lá mọc đối, đối 1 mọc so le, dài 3 – 7 cm, rộng 2,5 – 4 cm, có sống ngắn, hình trái xoan ngược, gốc thuôn, đầu hoặc hơi nhọn, mặt trên xanh sẫm bóng, mặt với nhạt; nhẵn hoặc có ít lông.
  • Cụm hoa mọc thành chuỳ ở đầu cành, dài 20 cm, trục hoa có cạnh và 4 cánh mỏng, hoa màu hồng, trắng, đôi khi tía; đài hình chuông, nhẵn, có ống 5 – 6 mm; cánh hoa 6, có móng dài, phiến nhăn nheo, nhị 36 – 42; bầu nhẵn, 5 – 6 ô.
  • Quả nang, hình cầu, cao 1 – 1,2 cm, nằm trong đài tồn tại, hạt có cánh.
  • Mùa hoa: tháng 6 – 8.

Phân bố, sinh thái

Tử vi có lẽ có nguồn gốc ở Ấn Độ, về sau được du nhập và trồng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, hiện không rõ tử vi được nhập trồng từ bao giờ; chỉ biết rằng ở một số đình chùa phía Bắc có những cây tử vi to, ước tính cả trăm tuổi. Cây cũng được trồng làm cảnh ở các công viên, nơi công sở hay vườn gia đình.

Tử vi là cây ra sáng, có thể trồng được trên nhiều loại đất; trong điều kiện nghèo dinh dưỡng, tử vi còn trở thành cây bon sai đẹp. Cây ra hoa quả nhiều hằng năm. Trồng được bằng hạt hoặc bằng cành chiết.

Bộ phận dùng:

Rễ, hoa, vỏ thân.

Thành phần hoá học

  • Cây tử vi chứa alcaloid lagerin và nhiều chất khác: decamin, decinin, decodin, dehydroverticillatin, lagerstroemin.
  • Rễ chứa sitosterol và acid 3, 3’ 4 – tri – O – methylellagic
  • Hoa chứa delphinidin 3 – arabinosid, petunidin – 3 – arabinosid và malvidin – 3 – arabinosid, acid gallic, methyl gallat và acid ellagic.
  • Lá chứa pageracetal, alcol amylic và acid ellagic.

Tính vị, công năng

Rễ và vỏ thân có vị hơi đắng, chát, tính bình, có tác dụng hoạt huyết, chỉ huyết, khu phong thanh nhiệt, giải độc.

Theo “Vân Nam ban thao”, hoa từ vị hơi chua, tính hàn, có tác dụng chí huyết, giải độc, huyết ứ.

Tác dụng dược lý

Tác dụng kháng thronibin:

Dùng thử nghiệm sinh học để xác định tác dụng kháng thrombin các cao chiết bằng methanol của 30 cây ở miền Trung Florida. Kết quả cho thấy có 7 cây có hoạt tính kháng thrombin từ 80% trở lên là tử vi, trọng đũa, thông thảo, tràm bông đỏ và 3 cây khác chưa thấy ở Việt Nam [Chistokhodova N. et al., 2002, J. Ethnopharmacology, Vol 81 (2): 277 – 280].

Công dụng

Nhân dân dùng hoa tử vi trị sản hậu, máu kết thành hòn cục, đới hạ, sốt, vỏ thân trị đau bụng, bế kinh, lở ngứa ngoài da; rễ trị mụn nhọt sưng đau, ghẻ lở ở đầu mặt, chân tay, còn chữa viêm tuyến vú, viêm gan, bụng trướng, các trường hợp xuất huyết.

Liều lượng: ngày 3 – 9g hoa hoặc 10 – 15g rễ hoặc vỏ thần sắc uống, hãm uống hoặc ngâm rượu uống. Dùng ngoài, không kể liều lượng.

  • Ở Ấn Độ, lá tử vi được dùng để nhuận tràng, tẩy, lợi tiểu, khai thông và thân là thuốc kích thích và chữa sốt, nước hãm vỏ thân chữa đau dạ dày và tiêu chảy, rễ sẵn se và cũng có công dụng như vỏ thân; quả tử vi khó chữa đái tháo đường.
  • Ở Trung Quốc, nhân dân còn dùng bột vỏ cây tử vi nấu với thịt lợn, ăn để điều trị thấp khớp. xuất huyết tử cung, các bệnh nội thương [Perry và Metzger, 1980, Med. Plants of East and Southeast , The MIT Press, Cambridge – Massachusetts, London.p248].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/bach-nhat-hong.html/feed 0
Mùng thơm https://tracuuduoclieu.vn/mung-thom.html https://tracuuduoclieu.vn/mung-thom.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:29:15 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57038 Mô tả
  • Cây thảo nhỏ, có thân rễ, sống nhiều năm, cao 0,5 – 1,5m.
  • Lá mọc tụ tập thành tím dày ở ngọn thân, hình bầu dục – mũi mác, gốc hình tim, đầu nhọn, mép lượn sóng, hai mặt nhẵn, gần như cùng màu; cuống lá mập, có bẹ ôm thân.
  • Cụm hoa là một bông mo có phần ống hình trứng thuôn, phần phiến phía trên có màu lục hoặc vàng lục, hơi uốn cong, sớm rụng. Phần trục mang hoa cái ngắn 2 – 2,5 cm; phần không sinh sản dài hơn, tiếp theo là phần mang hoa đực dài 3 cm, phần cuối trục hình nón hẹp, phình ở gốc, dài hơn phần mang hoa đực.
  • Quả mọng, hình trứng nhẵn.

Phân bố, sinh thái

Chi Alocasia (Schott) G.Don trên thế giới có tổng số 73 loài, Việt Nam có 6 loài. Loài mùng thơm trên cũng thường gọi là dọc mùng, hiện chưa rõ về nguồn gốc nhưng là cây trồng khá phổ biến làm rau ăn (cuống lá) ở Việt Nam cũng như một số quốc gia nhiệt đới Đông Nam Á khác. Ở nước ta, cây được trồng ở hầu như tất cả các tỉnh, trừ vùng núi cao lạnh (trên 1.500 m).

Mùng thơm là cây ưa ẩm, hơi chịu bóng và không chịu được ngập nước. Cây thường được trồng ở vườn gia đình, bờ ao và đôi khi cũng được trồng ở ruộng nhưng ở quanh làng có thể được che bóng một phần trong ngày. Đó là loại cây trồng lấy dọc (cuống lá) thường xuyên nên rất hiếm khi thấy có hoa quả. Nguồn cây giống để trồng là những nhánh con. Đất trồng mùng thơm cần luôn ẩm. Cây giống là các nhánh con tách ra từ cây mẹ, đã cắt bỏ bớt lá.

Bộ phận dùng:

Lá, củ và thân.

Thành phần hóa học

  • Sự có mặt của acid oxalic là dấu hiệu đặc trưng của tất cả các loài thuộc chi Alocasia.
  • Trong cây thường tồn tại dưới dạng calci oxalat.
  • Ngoài ra còn có đường, saponin (Mayo et al., 1997) procyanidin, c – glycosylflavon (Williams et al., 1981) anthocyanidin – 3 – rutinosid, flovenol quercetin, kaempferol… và flavon – C – glycosid (Williams et al., 1981) đã được tìm thấy trong tất cả các loài thuộc chi này.

Tác dụng dược lý

Tác dụng độc thần kinh:

Rễ củ cây mùng thơm có chứa sapotoxin độc với thần kinh. Mùng thơm có tính chất và hình thái rất giống với cây ráy Alocasia macrorrhiza. Nếu ăn sống rễ củ sẽ bị tê đau ở vùng miệng và họng (Chan et al., 1995).

Tính vị, công năng

Rễ củ mùng thơm vị nhạt, tính hàn, có độc, ăn vào gây ngứa, đau, tê ở vùng miệng và cổ họng, có công năng giải nhiệt, công độc, khu phong.

Ở Trung Quốc, sách “Tân hoa bản thảo cương yếu” và “Toàn quốc trung thảo dược hội biên” đều ghi: thân rễ mùng thơm vị hơi cay, chát, tính hàn, có độc; có công năng thanh nhiệt, giải nhiệt, tiêu thũng [TDTH, 1997, III: 281].

Công dụng

Củ mùng thơm, mài ra, bỏ vào miệng cho người bị kinh phong đờm rãi, nhất là trẻ em, sẽ làm giảm đờm (theo lương y Nguyễn Trung Hòa, Việt Nam).

Để chữa ngứa, tấy do lá han (Dendrocnide urentissima Chew), lấy củ, cắt ra, trà xát nhẹ vào chỗ ngứa. Còn dùng làm thuốc chữa mụn nhọt, ghẻ, sưng bàn tay, bàn chân.

Cuống lá mùng thơm có thể được dùng làm rau thái ra, ăn sống, hoặc nấu với canh chua.

  • Ở Trung Quốc, thân rễ mùng thơm được dùng chữa cảm cúm, sốt rét (ở Quảng Tây), thương hàn, phối kết hạch, viêm khớp, phong thấp. Ngày dùng 10 – 20g hoặc 30 – 60g tươi, sắc thật kỹ rồi uống. Cần sắc kỹ để giảm độc. Dùng ngoài, chữa trùng và giảo thương (rắn và côn trùng đốt cắn), sang loét thũng độc; lấy thân rễ tươi, rửa sạch, giã nát, đắp lên chỗ tổn thương và đau, không đắp lên chỗ da lành vì độc.

Bài thuốc có mùng thơm

Cao dán chữa mụn nhọt: Lấy thân rễ mùng thơm tươi (có thể dùng củ ráy cũng được) nặng khoảng 80 – 100g, nghệ củ tươi khoảng 60g. Gọt sạch vỏ thân rễ mùng thơm và cạo sạch vỏ nghệ. Giã nát thật kỹ mùng thơm với nghệ. Thêm dầu vừng vào, nấu thật nhừ. Sau đó, thêm dầu thông và sáp ong vào vừa đủ, khuấy cho thật đều. Để nguội. Phết cao lên giấy bản. Khi dùng chỉ cần dán cao vào nơi mụn nhọt. Nếu nhọt mới mang đỏ thường tan. Nếu đã có mủ, cao có tác dụng hút mủ.

Ghi chú:

  • Mùng thơm có độc, uống dịch sắc chưa kỹ hoặc liều cao có thể bị ngộ độc, biểu hiện bằng lưỡi, miệng tế, sưng, đau, ngộ độc thần kinh.
  • Để giải độc, có thể dùng giấm gạo hoặc gừng tươi ngậm rồi nhổ đi. Thân rễ mùng thơm khi tiếp xúc với da, dễ xuất hiện phản ứng ngứa, tê, sưng tấy.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/mung-thom.html/feed 0
Muồng nước https://tracuuduoclieu.vn/muong-nuoc.html https://tracuuduoclieu.vn/muong-nuoc.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:29:01 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57042 Mô tả
  • Cây to, cao 10 – 18m. Cành hình trụ, vặn vẹo, nhẵn.
  • Lá kép hai lần lông chim, mọc gần nhau, có cuống chung mập, dài khoảng 40 cm, lá chét không đều (lá chét nhỏ hơn lá chét của cây trạch quạch), 6 đôi có lá tận cùng, mọc so le, hình trái xoan – thuôn, dài 1,5 – 3,5 cm, rộng 10 – 20 mm, mặt trên nhẫn, mặt dưới rất nhạt, hơi có lông áp sát.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành bông, dài 15 cm, có lông nhỏ hoặc nhẵn; lá bắc sớm rụng; hoa nhỏ, nhiều, màu vàng mọc thành vòng dày đặc, đài dạng đấu có răng tù và nhiều lông, cánh hoa học ngang, thắt lại ở hai đầu; nhị 10, chỉ nhị ngắn; bầu có ít lông, chứa nhiều noãn.
  • Quả dài 15 – 20 cm, rộng 1,5 cm, hình lưỡi liềm, xoắn vặn, hạt hình thận, khi chín màu đỏ bóng, có rốn đen.
  • Mùa hoa quả: tháng 5 – 10.

Phân bố, sinh thái

Chi Adenanthera L., có 3 loài ở Việt Nam, trong đó, 2 loài có công dụng làm thuốc là Adenanthera payonina L. và cây muống nước nêu trên.

Muồng nước phân bố rộng rãi ở các tỉnh thuộc vùng núi thấp, từ Yên Bái, Lạng Sơn… vào đến tận Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Ở châu Á, loài này cũng thấy ở Nam Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Malaysia và Indonesia.

Muồng nước là loại cây gỗ nhỏ, ưa sáng, thường mọc rải rác trong các quần thể như ven rừng kín thường xanh, rừng hỗn giao với tre nứa hoặc với một số loài cây rụng lá vào mùa khô (miền Nam). Là loại cây mọc nhanh, muồng nước còn xuất hiện sớm trên những chỗ đất trống ở trong rừng rừng thứ sinh do khai thác chọn (cây gỗ) hoặc ven các bờ sông suối ở cửa rừng. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt.

Bộ phận dùng:

Vỏ thân và hạt.

Thành phần hóa học

Theo Trung được từ hải II”, 1996, muồng nước chứa stigmasterol glucosid, α – spinasterol glucosid, β- sitosterol glucosid, dulcitol polysaccharid, acid palunitic, acid stearic, acid arachidic, acid eicosenoic.

Tác dụng dược lý

Tác dụng kháng nấm:

Hạt muồng nước có tác dụng chống nấm là do trong hạt có một lượng chitinase khá cao. Chitinase có vai trò bảo vệ chống lại mầm bệnh trong đó có nấm.

Tính vị, công năng

Vỏ và rễ muồng nước có vị chát, nhạt, tính hơi hàn, ít độc, có tác dụng làm nôn, ta hạ, thu liễm, cầm máu.

Công dụng

Hạt muồng nước nghiền nát, đắp ngoài làm nhọt chóng mưng và vỡ mủ.

Vỏ thân trị kiết lỵ, ngày 4 – 6g sắc uống, hoặc tán bột rồi hãm uống.

  • Ở Trung Quốc, nhân dân dùng hạt, rễ, lá muồng nước trị ngoại thương xuất huyết, nhức nửa đầu.
  • Ở Campuchia, người ta dùng vỏ tươi hoặc khô, hãm uống trị kiết lỵ, tác dụng có thể hơn cả chiêu liêu.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/muong-nuoc.html/feed 0
Muỗm https://tracuuduoclieu.vn/muom.html https://tracuuduoclieu.vn/muom.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:24:31 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57040 Mô tả
  • Cây to, cao 10 – 15m, có khi hơn.
  • Lá mọc so le, hình mác – thuôn, dài 15 – 30 cm, rộng 5 – 9 cm, gốc thuôn, đầu có mũi nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc ngọn cành thành chùy phân nhánh đôi, màu đỏ đen nhạt; hoa nhiều màu lục vàng; đài có răng nhẵn, hình bầu dục nhọn; tràng có cánh hình mũi mác hẹp, dài gấp 3 lần đài; nhị 4 – 5, một cái sinh sản dài bằng cánh hoa và 3 – 4 cái khác ngắn hơn, bao phấn không toàn vẹn.
  • Quả hạch, hình bầu dục tròn, khi chín màu vàng lục, trong chứa thịt màu vàng, vị ngọt chua.
  • Hai thời vụ hoa chính: tháng 12-3 và 5-7. Quả tháng 3-6 và 10-11.

Phân bố, sinh thái

Muỗm hay còn gọi là “xoài hôi” vốn có nguồn gốc từ quần thể mọc tự nhiên trong rừng cây họ Dầu (Dipterocarpacene) ở bán đảo Malaisia, Thái Lan và các đảo lớn Sumatra và Borneo (Indonesia). Cây đã được đưa vào trồng từ lâu đời tại những nơi được coi là bản địa ở trên, cũng như nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á và Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Cây muỗm trồng ở Việt Nam, trên thực tế không biết một cách chính xác về xuất xứ và thời gian nào được đưa vào trồng. Vào khoảng trước năm 1990, muỗm có trồng ở nhiều tỉnh thuộc đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Trung Bộ. Cây trồng thường phân biệt thành 2 giống chủ yếu là quả hình ô van và ô van tròn. Muỗm trồng ở miền Bắc có ưu điểm là năm nào cũng có quả (hoặc nhiều hoặc ít), trong khi đó các loại xoài, nếu hoa ra sớm vào đúng thời kì có đợt gió mùa Đông Bắc, sẽ không đậu được quả nào. Mặc dù vậy, muỗm trồng ở miền Bắc và miền Trung nay đã bị thay thế bởi các giống xoài mới có chất lượng và năng suất cao. Đây là giống cây trồng lâu năm, có nguy cơ bị mất giống nên cần nhân giống để bảo tồn nguồn gen.

Muỗm là cây gỗ nhỏ hay gỗ nhỡ trung bình, Nghĩa là khi cây nhỏ ưa ẩm, chịu bóng, khi lớn và ưa sáng và có thể hơi chịu hạn. Cây mọc tự nhiên ở rừng, có thể lên tới độ cao 1.000m.

Bộ phận dùng

Vỏ – Cortex Mangiferae Foetida.

Thành phần hóa học

Quả có 65% phần ăn được. 100g phần ăn được chứa nước 72,5g, protein 1,4g, carbohydrat 25,4g, calci 21mg, phospho 15mg, thiamin 0,03mg, chất tương ứng với B – carotene 0,218mg và vitamin C 56mg [De Padua et al., Prosea 12 (1), 1992, 210).

Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia 2000, quả muỗm chín chứa 82,9% nước, 0,6% protein, 0,4% lipid, 15,3% carbohydrat, 0,4% cellulose, 4%mg calci, 4%mg phospho, 0,2%mg sắt, 1905%mcg B – caroten, 0,06%mg vitamin B, 0,06mg vitamin Ba, 0,9mg vitamin PP, 60%mg vitamin C [Viện Dinh dưỡng. Bảng thành phần dinh dưỡng thực phẩm VN – 2000, 55].

Tính vị, công năng

Vỏ cây muỗm vị chát, se. Có công năng làm săn da.

Công dụng

Quả ăn không ngon, có mùi vị nồng. Vỏ cây muỗm được dùng để chữa đau răng và để cầm ỉa chảy.

Để chữa đau răng, mỗi ngày dùng 10 – 20g vỏ, sắc đặc hoặc ngâm rượu, mỗi lần ngậm 10 – 20ml, ngày 4 – 6 lần, mỗi lần ngậm 1 phút rồi nhổ ra.

Để chữa ỉa chảy, cũng dùng 10 – 20g vỏ thân, sắc đặc rồi uống.

Ở Indonesia, nhân hạt thái lát, sao vàng, sắc uống để chữa ngứa, nhưng cần tránh nhựa của thân cây vì có thể gây viêm da [Perry et al., 1980: 15], quả ăn được [Med. herb. index, 1995: 363].

Nguồn: 3033 cây thuốc Đông y Tuệ Tĩnh.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/muom.html/feed 0
Ngô đồng https://tracuuduoclieu.vn/ngo-dong-2.html https://tracuuduoclieu.vn/ngo-dong-2.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:22:40 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57061 Mô tả
  • Cây to, cao 20 – 30m.
  • Lá đa dạng, kép chân vịt, mọc so le, hình tim, từ nguyên đến xẻ 3 – 5 thuỳ hình tam giác, gốc xẻ sâu thành 2 thuỳ tròn to, đầu từ thuôn nhọn, hai mặt hơi có lông, sau nhẵn; cuống lá dài.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thành chùy phân nhánh, có lông mềm; đài 5 răng hình trứng ngắn, có lông sắt ở mặt ngoài. Hoa đực có cuống bộ nhị nhăn và bầu lép có lông, chia 5 cạnh. Hoa lưỡng tính có bầu hình cầu có lông, vòi nhụy ngắn, đầu nhụy chia 5 thuỳ.
  • Quả gồm 5 đại, mở trước khi chín, hạt hình cầu.
  • Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 8 – 10.

Phân bố, sinh thái

Chi Firmiana Marsili ở Việt Nam chỉ có 2 loài. Một loại phân bố ở các tỉnh miền núi phía Bắc, và loài ngô đồng chỉ thấy ở phía Nam: Khánh Hoà (Cam Ranh, Nha Trang) và Bà Rịa – Vũng Tàu (Bà Rịa), Quảng Nam (Cù Lao Chàm) và có thể có ở Ninh Thuận, Bình Thuận.

Ngô đồng là cây gỗ mọc nhanh, ưa sáng và có khả năng chịu hạn tốt. Cây thường mọc ở rừng thưa nửa rụng lá hoặc rừng khô ở vùng ven biển. Cây cũng được trồng để lấy sợi (Từ điển cây thuốc Việt Nam, 1997). Cây trưởng thành ra hoa quả hàng năm. Tái sinh tự nhiên tốt từ hạt.

Bộ phận dùng:

Rễ, vỏ, hoa, hạt và lá.

Thành phần hóa học

Hạt chứa 40% dầu, thành phần chính là acid sterculic, palmitic, oleic, linoleic và cafein [Võ Văn Chi, 1996, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tr 97], [Phạm Hoàng Hộ, 2006, Cây có vị thuốc ở Việt Nam, tr.103].

Theo các tác giả Trung Quốc, ngô đồng chứa nhiều triterpen [Trung dược từ hải, vol.3, p.209 – 212]. Ngoài ra còn tìm thấy β – amyrin, betain, cholin (CA, 1991, 115, 46076a) lupeol, octacosanol (CA, 1991, 114, 139814j), kaemferol – 3- O – β – D – rutinosid (CA,1991, 114, 244264C) [Fitoterapia 1990, 61 (4) 373], quercetin – 3- O – β – D – neohespe – ridosid, hyperosid và glucosamin [CA, 1991, 115, 46076a].

Tác dụng dược lý

Tác dụng chống loạn tâm thần:

Một neolignan mới là simplidin có tác dụng chống loạn tâm thần (antipsychotic effect) đã được phân lập từ cao n – butanol của thân cây ngô đồng (Son YK et al., 2005).

Độc tính cấp:

Cao chiết nước toàn cây ngô đồng (cả gỗ thân, cành và lá) thử trên chuột nhắt trắng tiêm tĩnh mạch có liều chết trung bình LD50 = 8,3g/kg thể trọng chuột [Kee Chang Huang, 1999: 124].

Tác dụng trên cholesterol huyết và huyết áp:

Cao chiết bằng ethanol toàn cây ngô đồng làm giảm hàm lượng cholesterol trong huyết tương, nhưng không ảnh hưởng đến hàm lượng triglycerid. Cao cũng có tác dụng giãn mạch, làm tăng lưu lượng mạch vành và làm giảm huyết áp ngoại biên [Tài liệu đã dẫn].

Tính vị, công năng

  • Rễ và vỏ cây ngô đồng vị đắng, tính mát, có công năng trừ phong thấp, tiêu viêm, sát trùng.
  • Hoa và hạt vị ngọt tính bình, có công năng nhuận phế, hoà vị, tiêu tích trệ.
  • Lá ngô đồng vị ngọt, tính bình, có công năng thanh nhiệt giải độc, an thần, giáng tiêu viêm, làm hạ cholesterol.

Công dụng

Rễ ngô đồng được dùng chữa thấp khớp, viêm khớp dạng thấp, đau nhức xương. Ngày dùng 15 – 30g sắc lấy nước uống. Có thể dùng lá thay rễ còn dùng chữa lao phổi, thổ huyết, bạch đới, đòn ngã tổn thương.

Vỏ cây ngô đồng được dùng chữa trĩ, lòi dom, tóc bạc. Lấy vỏ cây hoặc vỏ cành bỏ lớp bần ở ngoài, chỉ lấy lớp trắng ở bên trong, đốt thành than nghiền thành bột trộn với dầu thực vật, rồi bối vào chỗ trĩ hoặc bôi vào chân tóc bạc.

Lá ngô đồng được dùng chữa cao huyết áp, bệnh mạch vành, tăng cholesterol huyết. Lấy lá ngô đồng 5 – 10g (10 – 20g tươi) sắc uống, ngày 1 thang. Để chữa thấp khớp đau nhức xương, suy nhược thần kinh, di tinh, bất lực, dùng 15 – 30g sắc uống, ngày một thang. Dùng ngoài, lấy lá khô, tán thành bột mịn hòa với mật ong bôi lên chỗ sưng tấy, mụn nhọt, lở loét.

Hoa ngô đồng được dùng chữa thuỷ thũng, bỏng chốc đầu, lở loét ngoài da. Để chữa thuỷ thũng, lấy hoa ngô đồng 10 – 15g sắc uống, ngày một thang. Để chữa bỏng, chốc đầu, lở loét, lấy hoa ngô đồng khô tán thành bột mịn, hòa với dầu thực vật bôi lên chỗ đau.

  • Ở Trung Quốc, rễ ngô đồng cũng được dùng để trị thấp khớp, đau nhức xương, chống sưng, phù, ngoài cách sắc uống, nếu là tươi, có thể dùng 30 – 60g giã nát, vắt lấy nước uống. Vỏ cây cũng được dùng chữa trĩ và tóc bạc sớm. Hạt được dùng chữa trĩ, viêm miệng, lở loét ngoài da.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/ngo-dong-2.html/feed 0
Nho núi https://tracuuduoclieu.vn/nho-nui.html https://tracuuduoclieu.vn/nho-nui.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:22:26 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57063 Mô tả
  • Cây thảo leo, thân mọc bò, hình trụ hoặc hình nhiều cạnh. Cành hình trụ, phình lên ở những mấu, hơi có lông; tua cuốn phân nhánh, mọc đối xứng với lá.
  • Lá đơn, hình bầu dục, dài 5 – 8 cm, rộng 4 – 8 cm, gốc hình tim, đầu nhọn, chia 3 – 5 thuỳ nông, mép khía răng, gân chính 5; cuống dài 1,5 – 3 cm, hơi có lông.
  • Cụm hoa mọc đối diện với lá thành ngù, ngắn hơn lá, rộng 2 – 5 cm, có lông nhỏ; đài hình đấu, hơi có lông, có 5 răng ngắn, tràng 5 cánh hình bị dục tù, đầu cánh cong gập vào trong, nhị 5, thụt, chỉ nhị hình chỉ, hơi dày lên ở giữa, bao phấn gần hình mắt chim; bầu hình tháp, vòi nhụy hình trụ nhẵn, đầu nhụy không rõ, 2 ô, chứa 2 noãn.
  • Quả mọng, màu lam hay tím; hạt 3 – 4, gồ lên và nhẵn ở mặt lưng, có một vạch dọc và 2 hố lõm.
  • Mùa hoa quả: tháng 2 – 3 và 7- 12.

Phân bố, sinh thái

Nho núi mới chỉ ghi nhận phân bố ở một số điểm tại miền Bắc như: Quảng Ninh (Hà Cối), Hà Nội (Từ điển cây thuốc Việt Nam, 1997 và Danh lục các loài thực vật Việt Nam, T.II, 2003). Ngoài ra cũng thấy có ở Vĩnh Phúc (Tam Dương, Tam Đảo) và Thái Nguyên (Đại Từ: Quân Chu). Loài này còn phân bố tại Nam Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản.

Cây ưa ẩm, chịu bóng; thường leo lên những cây bụi và dây leo khác ở ven rừng, bờ suối ở cửa rừng và bờ nương rẫy. Cây ra hoa quả hàng năm tái sinh tự nhiên bằng hạt. Nếu bị chặt phát, phân còn lại tiếp tục tái sinh.

Bộ phận dùng:

Quả, rễ. Thu hái vào mùa hè thu, quả phơi khô, rễ rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô hoặc dùng tươi.

Thành phần hóa học

Nho núi chứa ampelopsin A, B, C [Trung dược đại từ điển, (1993), 2322, (1996) vol.II, 1567 và (1997) vol.III, 559]. Ngoài ra còn có juglani, astragalin, neohesperidoid, kaempferol – rhamnopyranosyl – (1 – 2) – galactopyranosid và 3 – O – kaempferol 3- O – arabino – pyranosid [Tetrahedron letter, 1990, 46 (15) 5121].

Tác dụng dược lý

Tác dụng bảo vệ gan in vitro:

Có 8 mẫu ức chế được nhiều hơn 50% trên độc tế bào do cả 2 chất độc gan, trong đó có nho núi (Yang et al., 1987). Nho núi làm giảm sự giải phóng LDH, tức là có tác dụng bảo vệ chống lại sự tổn thương của tế bào gan (Yabe, et al., 1998).

Tác dụng bảo vệ gan in vivo:

Ở chuột dùng cao nho núi, hoạt độ các transaminase ALT, AST giảm có ý nghĩa thống kê cao so với lô đối chứng đã bị tăng cao các transaminase do carbon tetraclorid (Yabe và Matsui, 2000).

Tác dụng chống oxy hóa:

Cao nho núi có tác dụng chống oxy hoá cả trên hệ không có tế bào, cả tác dụng chống oxy hóa do gây stress tế bào. Tác dụng chống oxy hoá của cao nho núi có thể giải thích một phần tác dụng chống viêm và chống độc gan mà dân gian vẫn dùng thân và rễ nho núi để chữa (Wu et al., 2004).

Tác dụng ức chế khối u:

Rễ nho núi chiết bằng cách sắc với nước hoặc chiết bằng ethanol đều có tác dụng ức chế u bảng chuột nhắt trắng khi cấy tế bào u dòng Sarcoma 180 vào trong màng bụng chuột. Kết quả cũng cho thấy cao chiết nước có tác dụng ức chế (36%) mạnh hơn cao chiết bằng ethanol (17,4%) [Chang Minyi, 1992: 229].

Tính vị công năng

Quả nho núi vị chua hơi ngọt, tính mát, có tiểu độc; rễ và thân vị đắng hơi ngọt, tính mát, có công năng thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết tán ứ, khu phong trừ thấp.

Tài liệu Trung Quốc ghi: rễ nho núi vị cay, tính nhiệt, có công năng hoạt huyết tán ứ, tiêu viêm giải độc, sinh cơ tạo cốt, trấn phong khư hàn [TDTH, 1993, I: 2322]; thân và thân rễ nho núi vị cay, đắng, tính mát có công năng thanh nhiệt giải độc, khu phong hoạt lạc, chỉ lỵ, chỉ huyết [TDTH, 1996, II: 1567]. Một tài liệu khác ghi: nho núi vị ngọt, hơi chua, tính bình, có công năng kích thích tuần hoàn máu, mạnh gân, giảm sưng, giải độc [Chang Minyi, 1992: 229].

Công dụng

Rễ, vỏ rễ (với rễ to) nho núi được dùng chữa ung thư dạ dày, ruột, phong thấp, cước khí, thủy thũng, nôn mửa, ỉa chảy. Ngày dùng 5 – 10g rễ và vỏ rễ sắc uống. Nếu cả thân và thân rễ liều 15 – 30g sắc uống, ngày 1 thang.

Để chữa đòn ngã đau nhức, ngoại thương ứ máu, dùng rễ, vỏ rễ nho núi 1 – 3g tán thành bột mịn, hoà với rượu ấm uống, ngày 2 – 3 lần.

Dùng ngoài, lấy dược liệu tươi, rửa sạch, giã nát, đắp ngoài chữa vết thương chảy máu, đòn ngã tổn thương, bỏng lửa, mụn nhọt, lở ngứa.

  • Ở Đài Loan, Nhật Bản, có những báo cáo về độc do quả nho núi, nước sắc rễ để rửa mắt khi bị đau mắt.
  • Ở Campuchia, lá nho núi để điều trị vết thương và đau do rết cắn [Perry et al., 1980: 433].
  • Ở Trung Quốc, tài liệu cổ ghi: để làm giảm đau vùng thắt lưng, bàn chân, bàn tay, cẳng chân, dùng rễ, sắc đặc, lấy nước rửa. Rễ tươi, rửa sạch, giã nát lấy nước uống hoặc sắc uống để lợi tiểu, kích thích hoạt động của ruột non và làm giảm sưng phồng. Để chống nôn, lấy rễ, sắc lấy nước đặc, rồi nhấp dần từng ngụm một [Chang Minyi, 1992: 230]. Tài liệu mới ghi: rễ và thân rễ nho núi được dùng chữa ung thư đường tiêu hoá và đường tiết niệu, chữa u lympho ác tính [Kee Chang Huang, 1999: 482].

Bài thuốc chữa ung thư có nho núi

  1. Chữa ung thư dạ dày – ruột: Rễ nho núi 30g, bạch hoa xà thiệt thảo 30g, long quy 30g, sắc uống ngày 1 thang.
  2. Chữa ung thư dạ dày: Rễ nho núi 20g, thủy dương mai 20g, bán chi liên 20g, đằng lê căn (sắc trước 2 giờ), bán biên liên 20g, phượng vĩ thảo 15g, bạch mao căn 20g. Sắc lấy ngày 1 thang.
  3. Chữa ung thư phổi: Bài 1: Rễ nho núi 30g, hoàng cầm râu (toàn cây) 30g, bán biên liên (toàn cây) 30g, gáo tròn (rễ) 30g, dương đào Trung Quốc (rễ) 60g, hòe Bắc Bộ (rễ) 15g, bảy lá một hoa (thân rễ) 15g, seo gà (toàn cây) 25g, có tranh (thân rễ) 25g, bạch
    truật (thân rễ) 10g. Sắc lấy nước uống, ngày 1 thang chia 2 – 3 lần.
    Bài 2: Nho núi (rễ), đăng lê căn, bán biên liên, đan sâm, bạch hoa xà thiệt thảo, thanh cao mỗi vị 30g, đại hoàng, phật thủ, địa du, cao đồng, mỗi vị 10g. Sắc lấy nước uống, ngày 1 thang chia 2 – 3 lần.
  4. Chữa ung thư ruột: Rễ nho núi 30g, thanh cao, địa đu, xà môi, mỗi vị 30g. Sắc lấy nước uống, ngày 1 thang.
  5. Chữa ung thư vú: Rễ nho núi, cầu cốt thụ căn, vân thực, mỗi vị 30g, đằng lê căn (sắc trước 2 giờ) 30g, bá giác kim bàn 5g, thiên nam tinh 5g. Sắc lấy nước uống, ngày 1 thang.
  6. Chữa ung thư thận: Rễ nho núi 30g, khoai trời (khoai dái), toàn cây bán biên liên, thân rễ cỏ tranh, ý dĩ, mỗi vị 15g. Sắc lấy nước uống ngày 1 thang.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nho-nui.html/feed 0
Rau diếp đắng https://tracuuduoclieu.vn/rau-diep-dang.html https://tracuuduoclieu.vn/rau-diep-dang.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:19:15 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57138 Mô tả
  • Cây thảo, sống hằng năm, cao 0,5 – 0,6m, có nhựa trắng như sữa. Thân thẳng, nhẵn.
  • Lá mọc so le, hình bầu dục, chia thuỳ và răng không đều, hai mặt nhẵn, lá gốc và lá giữa có bẹ ôm thân và tai ngắn.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thành ngủ hoặc tán gồm nhiều đầu, có cuống nhăn và bóng; đầu hình trứng; lá bắc xếp thành 6 – 7 hàng hoa toàn hình lưỡi, mào lông mềm, màu trắng, tràng có lưỡi hẹp, cụt đầu, 5 răng, ống tràng có lông; nhị 5, có tại; bầu nhẵn.
  • Quả bế dẹt, hơi có cạnh, có khía rõ.

Phân bố, sinh thái

Chi Sonchus L. trên thế giới có khoảng 50 loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm, vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới vùng núi ở bắc bán cầu. Ở Việt Nam, chi này có 4 loài, cũng tập trung chủ yếu ở vùng núi và đôi khi thấy ở vùng trung du (phía Bắc). Loài rau diếp đắng hiện đã ghi nhận về phân bố ở một số địa phương như: Lai Châu (Phong Thổ, Sìn Hồ); Lào Cai (Sa Pa, Bắc Hà); Hà Giang (Quản Bạ, Đồng Văn); Cao Bằng (Quảng Hoà), Lạng Sơn (Tràng Định, Cao Lộc); Yên Bái (Mù Cang Chải), Kon Tum (Đăk Glei) và Lâm Đồng (Đà Lạt). Trên thế giới, cây phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Indonesia.

Cây ưa ẩm, ưa sáng và thích nghi cao ở vùng có khí hậu ẩm mát của miền núi. Rau diếp đắng thường mọc lẫn với các cỏ thấp ở ven đường đi, trên nương rẫy và các bãi hoang quanh làng bản.

Bộ phận dùng:

Toàn cây.

Thành phần hoá học

  • Lá và ngọn có 2,4% carbohydrat, 1,2% protein, 0,8% lipid, vitamin C (Võ Văn Chi, 1997).
  • Rau diếp đắng chứa một disaccharid (I), scopoletin, esculetin, alcol cerylic, α – amyrin và β – sitosterol, tinh dầu bao gồm các acid heptanoic và hexanoic, ȣ – terpineol, geraniol, geranial, butanol, bornyl acetat và anethol, còn phần không bay hơi chứa acid 3β, 25 – epoxy 3 – hydroxyolean – 18 -en – 28 – oic.
  • Lá non chứa 4,1mg% vitamin C.

Tác dụng dược lý

Nước sắc lá rau diếp đắng cho chuột cống trắng uống làm tăng hiệu suất tiết niệu trung bình ở chuột uống thuốc so với ở chuột đối chứng, như vậy nước sắc này có tác dụng lợi tiểu nhẹ (Caceres A. et al., 1987).

Tính vị, công năng

Rau diếp đắng có vị đắng, tính mát, hơi có độc, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết, chỉ huyết.

Công dụng

Rau diếp đắng thường được dùng trị: viêm ruột lý, viêm gan, xơ gan, viêm ruột thừa, viêm vú, viêm miệng, viêm họng, viêm amidan, chảy máu dạ dày nôn ra máu, chảy máu cam, ho ra máu, xuất huyết tử cung. Liều dùng 15 – 30g sắc uống.

Dùng ngoài trị nhọt định và viêm mủ da, viêm tai giữa. Nghiền cây tươi ép lấy dịch hoặc sắc lấy nước đặc để dùng ngoài.

Rau diếp đắng được dùng làm rau ăn ở Việt Nam, Indonesia, Philippin và cả ở châu Phi. Người ta dùng ăn như rau xà lách, có tác dụng trị cảm mạo và dùng cho phụ nữ đang cho con bú ăn để có nhiều sữa.

  • Ở châu Phi, nước sắc phần trên mặt đất của cây được dùng uống trị bệnh trĩ. Nước sắc này cũng có tác dụng lọc máu và chống đái tháo đường.
  • Ở một số nước Đông Nam Á, nhựa cây rau diếp đắng được dùng làm một thuốc tẩy mạnh.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rau-diep-dang.html/feed 0