Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Tue, 08 Jul 2025 09:20:54 +0700 vi hourly 1 Sài hồ https://tracuuduoclieu.vn/sai-ho.html https://tracuuduoclieu.vn/sai-ho.html#respond Thu, 15 Dec 2022 08:41:21 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=69955 Mô tả cây
  • Sài hồ là cây sống lâu năm, cao 45-70 cm, rễ nhỏ, hình trụ, phân nhánh hoặc không phân nhánh. Thân mọc thẳng, phân nhánh.
  • Lá mọc cách, mép nguyên, hình mác, dài 3-6cm, rộng 6-13cm, đầu lá nhọn, có 7-9 đường gân song song. Lá phía dưới có cuống ngắn, phía trên không có cuống.
  • Cụm hoa hình tán kép, mọc ở kẽ lá và đầu cành, gồm 3-8 tán đơn không bằng nhau, lá bắc hình mác.
  • Hoa nhỏ màu vàng.
  • Quả hình bầu dục, dài độ 5mm, nhưng góc quả rất rõ, có 3 ống tinh dầu nằm ở mặt tiếp giáp.
  • Mùa ra hoa: tháng 7-10.

Phân bố

Sài hồ có nguồn gốc ở Nhật Bản và Trung Quốc. Hiện nay, hai đất nước này cũng là nơi trồng nhiều sài hồ nhất. Vào năm 1994, Viện Dược liệu nhập hạt từ hạt giống sài hồ Nhật Bản đã trồng thử ở Trại thuốc Sapa và Tam Đảo. Cây sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, về chiều cao, cây trồng ở Tam Đảo thấp hơn ở Sapa. Cây trồng ở Sapa đã cho thu hoạch hạt giống và dược liệu.

Bộ phận dùng

Rễ đã được phơi khô hoặc sấy khô.

Thành phần hóa học

Sài hồ chứa các hợp chất thuốc nhiều nhóm thành phần hóa học, có chừng 0,5% chất saponin, tinh dầu và flavonoid. Trong rễ chứa khoảng 1.69% hàm lượng saponin, hàm lượng cao hay thấp này phụ thuộc vào kích thước của rễ, chứa chủ yếu ở phần vỏ rễ.

Thành phần tinh dầu sài hồ gồm acid pentanoic, acid hexanoic, acid 2-heptenoic, acid octanoic, acid octenoic, acid nonanoic,.. và nhiều thành phần hóa học khác. Hàm lượng tinh dầu là 0.16% trong rễ và 0.05% trong thân.

Lá có nhiều flavoid: kaempferitrin ( kaempferol-3,7-dirhamnosid) và kaempfreol-7-rhamnosid.

Theo như quy định của Dược điển Trung Quốc( bản in Tiếng Anh) 1997 hàm lượng chiết suất trong sài hồ tan trong cồn( chiết nóng ) là 11%.

Tính vị

Sài hồ có vị đắng, mùi thơm, tính mát.

Công dụng

Sài hồ được dùng chữa sốt, nhức đầu, chóng mặt, sốt do thương hàn, sốt rét, ngực bụng đầy trướng, kinh nguyệt không đều.

Trong y học cổ truyền của các nước phương Đông, sài hồ được dùng điều trị sốt, đau và viêm kết hợp với cúm và cảm lạnh, giảm đau trong suốt quá trình điều trị đau tức ngực và vùng hạ sườn, điều trị vô kinh, viêm gan mạn tính, hội chứng hư thận và bệnh tự nhiên miễn dịch. Trong y học dân gian của một số nước, sài hồ chữa điếc, chóng mặt, đái tháo đường, vết thương và nôn mửa.

Tác dụng dược lý

Hoạt tính hạ sốt và giảm đau

Một số nghiên cứu invivo đã xác nhận hoạt tính hạ sốt của rễ sài hồ trong điều trị sốt gây thực nghiệm ở động vật. Cho thỏ đã được gây sốt thực nghiệm uống sài hồ (5g/kg) dạng nước sắc, thân nhiệt thỏ giảm xuống mức bình thường trong 1.5 giờ. Tiêm dưới da cao cồn – nước rễ sài hồ làm hạ số ở thỏ được tiêm.

Cho chuột cống trắng uống saikosaponin làm hạ sốt.

Hoạt tính an thần

Những nghiên cứu in vivo cũng đã xác nhận tác dụng an thần của rễ sài hồ . Cả phân đoạn saikosaponin thô và saikogennin A đều có tác dụng rất rõ rệt. Nghiên cứu invivo dùng làm thí nghiệm chuột leo que chứng minh an thần của saikosaponin ( 200-800mg/kg) ở chuột nhắt trắng giống như meproamat(100mg/kg). Cho uống saikosid hoặc sailosaponin A rừ sài hồ bắc cũng kéo dài giấc ngủ gây bởi cyclobarbital natri. Tiêm phúc mạc saicogenin A ức chế sự leo que của chuột nhắt trắng và đối kháng với tác dụng kích thích của metamphetamin và cafein.

Hoạt tính bảo vệ gan

Saponin thô từ sài hồ cho chuột cống trắng uống(500mg/kg.ngày x3 ngày), làm bình thường hóa chức năng gan, qua xác định phosphatase kiềm trong huyết thanh chuột gây nhiễm độc gan, qua xác định phosphatase kiềm trong huyết thanh chuột gây ra nhiễm độc gan với carbon tetraclorid. Điều trị chuột cống trắng với sailpsaponin 2 giờ trước khi cho galactosamin, đã ức chế sự tăng trưởng AST( Aspartat amminotransferase) và ALT(Alanin aminotransferase) trong huyết thanh do tổn thương mô gan.

Trong mô hình gây tổn thương gan cấp tính với carbon tetraclorid trên chuột cuống trắng, nhóm chuột điều trị với cao methanol sài hồ ( 160mg/kg/ngày* 1,2,3 ngày) hồi phục nhanh hơn, trở về mức bình thường của đường máu và hoạt độ của AST, ALT, phosphatase kiềm và 5′-nucleotidase ở ngày 2 và 3, và ở mức glycogen gan, lipid peroxyld tiểu thể gan và hoạt độ của glucose-6-phosphatase vào ngày 3. Trong thử nghiệm in vitro, cao methanol ức chế sự peroxy hóa lipid phụ thuộc vào liều. Cao methanol sài hồ làm răng sự phục hồi tổn thương gan cấp tính gây  bởi CCl4 có thể do tác dụng oxy hóa. Các saikosaponin A và D có tác dụng trên các enzym gan và làm tác dụng của cortison kích thích tyrosin aminotransferase của gan. Chức năng gan được cải thiện khi dùng lâu dài các saponin sài hồ chứa saikosaponin A và D hoặc B và C. Có hiệu lực tốt dự phòng tổn thương gan, làm tăng tổng hợp protein ở gan.

Hoạt tính điều hòa miễn dịch

Nghiên cứu invivo chứng minh cao chiết với nước nóng từ rễ sài hồ làm tăng đáp ứng kháng thể và ức chế biến đổi của tế bào lympho gây ra bởi chất tạo phân bào.  Một polysacharid, bupleuran 2IIb phân lập từ rễ sài hồ, làm tăng mạnh sự gắn của phức hợp miễn dịch vào đại thực bào. Hoạt tính của polysacharid này có vẻ do khả năng làm tăng chức năng của thụ thể Fc ở đại thực bào.

Bài thuốc có chứa sài hồ

1. Chữa sốt, sốt do hư lao, cảm mạo:

  • Sài hồ 15g, bán hạ 7g, nhân sâm, sinh khương, cam thảo, đại táo mỗi vị 4g; hoàng cầm 2.5g . Sắc uống mỗi ngày 1 thang
  • Sài hồ 100g, cam thảo 25g. Tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày dùng 8g, với 1 bát nước

2. Chữa suy nhược cơ thể ở người có bệnh mạn tính ở phổi và đường tiêu hóa

Sài hồ 10g, đảng sâm 16g, hoài sơn, bạch truật, đại táo mỗi vị 12g, phục linh địa hoàng, bạch thược, đương quy, thàn khúc, bạch chỉ, mạch môn mỗi vị 10g, phòng phong 9g, biển đậu, cát cánh mỗi vị 8g, cam thảo 6g, can khương, quế chi mỗi vị 4g. Tán nhỏ, uống mỗi ngày 20g.

3. Chữa tăng huyết áp ở người trẻ, hoặc trong rối loạn tiền mãn kinh

Sài hồ 8g, xa tiền 16g, sinh địa 14g hoàng cầm, chi tử, trạch tả mỗi vị 12g, long đởm thảo, đương quy, mộc thông mỗi vị 8g, cam thảo 4g. Sắc uống trong một tháng.

4. Chữa suy nhược thần kinh, nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, khó ngủ

  • Sài hồ 12-16g, chỉ tử, mạn kinh, cúc hoa, táo nhân, bá tử nhân mỗi vị 8-12g.Sắc uống ngày một thang.
  • Sài hồ 12g, đương quy, bạch thược, bạch truật, phục linh,bạc hà mỗi vị 8g, cam thảo 6g, sinh khương 4g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
  • Sài bắc,hoàng cầm, bạch truật, phục linh, bạch thược, đại táo, mỗi vị 12g, thanh bì, bạc hà, uất kim, hương phụ, chỉ xác, táo nhân mỗi vị 8g, cảm thảo 6g. Sắc uống ngày một thang.

5. Chữa viêm gan virut mạn tính

  • Sài hồ, bạch truật, đảng sâm, bạch thược mỗi vị 12g; phục linh, bán hạ chế, mỗi vị 8g; cam thả, trần bì mỗi vị 6g. Sắc ngày uống 1 thang.
  • Sài hood 12g; bạch thược, xuyên khung, đương quy, đại táo mỗi vị 8g; chỉ thực. hậu phác, cam thảo mỗi vị 6g. Sắc uống này một thang.
  • Sài hồ, bạch thược, đương quy, bạch truật, bạch linh mỗi vị 12g; uất kim 8g; cảm thảo 4g, gừng sống 2g. Sắc uống ngày một thang hoặc tán bột uống 20g mỗi ngày.

 

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/sai-ho.html/feed 0
Hương thảo https://tracuuduoclieu.vn/huong-thao.html https://tracuuduoclieu.vn/huong-thao.html#respond Mon, 10 Oct 2022 08:00:17 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=69136 Cây hương thảo thuộc họ bạc hà, có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải, cũng như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Trước năm 2017, cây này được biết đến với tên khoa học là Rosmarinus officinalis Lamiaceae. Hương thảo là một loại cây bụi có lá xanh quanh năm, hình kim và có mùi thơm. Hoa của cây có thể có màu trắng, hồng, tím hoặc xanh dương.

 1

Hương thảo – Rosmarinus officinalis Lamiaceae.

Mô tả

Thân cây: Cây hương thảo là một loại cây bụi xanh quanh năm, có mùi thơm và lá giống như lá cây thông Tsuga.. Vỏ thân cây màu xám đen, nứt nẻ không đều, tróc vẩy, cành non có mật đồ dày màu trắng. Cây này có thể phát triển theo nhiều dạng, từ thẳng đứng đến rủ xuống. Các dạng thẳng đứng có thể cao từ 1,2 đến 1,8 mét.

Lá: Lá chụm trên cành, rất nhiều lá, hình dạng lá hẹp, mép lá gập xuống, lá hình dài, không có cuống, màu xanh sẫm và nhẵn ở trên, phủ lông rải rác màu trắng ở mặt dưới. Lá của cây dài từ 2 đến 4cm, rộng từ 2 đến 5mm, mặt trên màu xanh và mặt dưới màu trắng với lớp lông ngắn, dày.

Hoa: Hoa xếp 2-10 ở các vòng lá, đài cỡ 1cm, màu lam nhạt có hơi màu hoa cả và những chấm tím ở phía trong các thùy. Cây hương thảo nở hoa vào mùa xuân và mùa hè ở các vùng khí hậu ôn đới, nhưng có thể nở hoa liên tục ở các vùng khí hậu ấm áp. Hoa có màu trắng, hồng, tím hoặc xanh đậm. Các cành cây có các nhóm hoa từ 2 đến 3 bông dọc theo chiều dài của nó. Cây hương thảo cũng có thể nở hoa ngoài mùa thông thường, có thể nở muộn đến đầu tháng 12 và sớm nhất là giữa tháng 2 (ở Bắc bán cầu).

Rễ: dạng rễ trùm

Mô tả 1

Phân bố

Cây có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải, nhưng cũng có thể chịu được khí hậu mát mẻ. Một số giống đặc biệt như ‘Arp’ có thể chịu được nhiệt độ mùa đông xuống tới khoảng −20°C.

Hương thảo có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải, cũng như Bồ Đào Nha và tây bắc Tây Ban Nha. Nó được nhắc đến lần đầu tiên trên các phiến đá hình nêm sớm nhất là vào năm 5000 trước Công nguyên. Loại thảo mộc này đã được thuần hóa ở Trung Quốc sớm nhất là vào năm 220 sau Công nguyên, dưới thời Hậu Hán.

Hương thảo đến Anh vào một thời điểm không xác định, mặc dù có khả năng người La Mã đã mang nó đến khi họ xâm chiếm Anh vào năm 43 sau Công nguyên. Tuy nhiên, không có ghi chép đáng tin cậy nào về hương thảo ở Anh cho đến thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Lần đề cập này nằm trong một tài liệu sau này được cho là của Charlemagne, người đã khuyến khích việc sử dụng chung các loại thảo mộc và đặc biệt ra lệnh trồng hương thảo trong các vườn và trang trại tu viện.

Không có ghi chép nào về việc hương thảo được thuần hóa đúng cách ở Anh cho đến năm 1338, khi các cành giâm được gửi đến Nữ hoàng Philippa bởi mẹ của bà, Nữ bá tước Joan xứ Hainault. Sau đó, nó được trồng trong vườn của cung điện Westminster cũ. Kể từ đó, hương thảo có thể được tìm thấy trong hầu hết các văn bản thảo dược của Anh.

Cuối cùng, hương thảo đã đến châu Mỹ cùng với những người định cư châu Âu đầu tiên vào đầu thế kỷ 17, và nhanh chóng lan sang Nam Mỹ và phân bố trên toàn cầu.

Phân loại

Tên khoa học của cây hương thảo hiện nay là Salvia rosmarinus, được coi là một trong hàng trăm loài thuộc chi Salvia. Trước đây, nó được xếp vào một chi nhỏ hơn nhiều là Rosmarinus, chỉ chứa hai đến bốn loài, bao gồm R. officinalis, hiện được coi là từ đồng nghĩa của S. rosmarinus. Salvia jordanii (trước đây là Rosmarinus eriocalyx) là một loài có quan hệ gần gũi, có nguồn gốc từ bán đảo Iberia và vùng Maghreb của châu Phi. Cả tên chi ban đầu và hiện tại của loài đều được đặt bởi nhà tự nhiên học và nhà phân loại học Carl Linnaeus vào thế kỷ 18. Elizabeth Kent đã ghi trong cuốn Flora Domestica (1823) của mình: “Tên thực vật của cây này được ghép từ hai từ Latin, có nghĩa là Sương biển; và quả thực cây hương thảo phát triển tốt nhất ở gần biển.

Bộ phận sử dụng

Bộ phận sử dụng 1

Lá, hoa.

Thành phần hóa học

Hương thảo có mùi rất thơm. Tinh dầu hương thảo là hợp chất thơm dễ bay hơi. Cây chứa tinh dầu và tannin, ở cây khô tinh dầu khoảng 0,5%, lá có 1-2%, hoa có 1,4%. Trong tinh dầu, thành phần gồm có α-pinen (tới 80%), terpen, borned, acetat bornyl, camphor, cineol và 1 sesquiterpen (caryophyllen).

Giá trị dinh dưỡng của hương thảo

Hương thảo khô (tính theo 100g phần ăn được) chứa:

  • Nước: 9.3g
  • Protein: 4.9g
  • Chất béo tổng: 15.2g
  • Carbohydrate: 46.5g
  • Chất xơ: 17.6g
  • Khoáng chất: 6.5g (bao gồm: Canxi 1.3g, Sắt 29mg, Magie 220mg, Photpho 70mg, Kali 955mg, Natri 50mg, Kẽm 3.2mg)
  • Vitamin: Vitamin C 61.2mg, Thiamine (Vitamin B1) 0.51mg, Niacin (Vitamin B3) 1.0mg, Vitamin A 3128 IU
  • Phytosterol: 58mg
  • Năng lượng: 1387 kJ (theo nghiên cứu của Guzman, 1999).

Tính vị

Hương thảo có vị chát, nóng, mùi thơm nồng, hơi se, có tính tẩy uế và chuyển máu.

Công dụng

Trồng làm cảnh

Vì có vẻ ngoài đẹp mắt và khả năng chịu hạn tốt, hương thảo được sử dụng làm cây cảnh trong vườn và cho cảnh quan khô hạn (xeriscape), đặc biệt là ở các vùng có khí hậu Địa Trung Hải. Nó được coi là dễ trồng và kháng sâu bệnh.

Hương thảo có thể phát triển khá lớn và giữ được vẻ đẹp trong nhiều năm, có thể được cắt tỉa thành các hình dạng trang trọng và hàng rào thấp, và đã được sử dụng để tạo hình cây cảnh (topiary). Nó dễ dàng được trồng trong chậu. Các giống cây phủ đất lan rộng, với kết cấu dày đặc và bền.

Để thu hoạch từ cây, bụi cây cần được trồng và phát triển từ 2–3 năm để đảm bảo nó đủ lớn để chịu được việc thu hoạch. Lượng thu hoạch không được vượt quá 20% sự phát triển để bảo tồn cây.

Thực phẩm

Lá hương thảo tươi hoặc khô thường được dùng để tạo hương vị cho thịt và rau củ. Lá khô có thể sử dụng ở dạng nghiền hoặc bột, đặc biệt phổ biến trong chế biến thực phẩm.

Lợi ích với sức khỏe

Lợi ích với sức khỏe 1

Cải thiện trí nhớ:

Hương thảo có tiếng từ lâu về việc cải thiện trí nhớ và đã được sử dụng như một biểu tượng của sự tưởng nhớ (trong đám cưới, lễ tưởng niệm chiến tranh và tang lễ) ở châu Âu, có lẽ do danh tiếng này. Người ta thường ném hương thảo vào mộ như một biểu tượng của sự tưởng nhớ người đã khuất. Trong tác phẩm “Hamlet” của Shakespeare, Ophelia nói, “Đây là hương thảo, để tưởng nhớ”. Một nghiên cứu hiện đại đã chứng minh phần nào danh tiếng này. Khi mùi hương thảo được bơm vào các buồng làm việc, những người làm việc ở đó cho thấy trí nhớ được cải thiện, mặc dù tốc độ nhớ lại chậm hơn[1].

Kháng khuẩn:

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng axit carnosic và rosmarinic trong hương thảo có đặc tính kháng khuẩn, kháng vi-rút và kháng nấm mạnh mẽ. Do đó, sử dung hương thảo thường xuyên có khả năng giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng và giúp hệ thống miễn dịch chống lại bất kỳ bệnh nhiễm trùng nào xảy ra.

Chống ung thư:

Có nhiều báo cáo về tác dụng chống ung thư của hương thảo. Chiết xuất hương thảo kích thích enzyme chống ung thư và các polyphenol trong hương thảo ức chế sự kích hoạt của các chất gây ung thư. Hương thảo cũng giúp giảm tính thấm và độ giòn của mao mạch.

Chống oxy hóa:

Hương thảo có tác dụng chống oxy hóa, mặc dù không mạnh bằng polyphenol trong trà xanh nhưng mạnh hơn vitamin E.

Tác dụng khác:

  • Hương thảo có thể giúp giảm co thắt, hỗ trợ chức năng gan và hệ miễn dịch. Nó cũng có thể giảm đau đầu, giảm căng thẳng và hỗ trợ điều trị hen suyễn và viêm phế quản. Hương thảo còn được sử dụng trong liệu pháp hương thơm để điều trị đau mãn tính.
  • Đuổi bọ chét và ve: Lá hương thảo dạng bột được dùng làm chất đuổi bọ chét và ve tự nhiên hiệu quả.

Công dụng của hương thảo theo y học dân gian

Trong y học dân gian, dịch truyền làm từ thân và hoa của nó được dùng để chữa đau đầu và cảm lạnh, làm thuốc giảm đau quặn thận và đau bụng kinh, và như một loại thuốc chống co thắt. Sau khi chiết xuất tinh dầu, nước cất từ hoa còn được dùng làm nước rửa mắt, cải thiện tiêu hóa và giảm đau bụng.

Chiết xuất và tinh dầu của nó đã được sử dụng để thúc đẩy kinh nguyệt và như một chất phá thai. Chiết xuất hương thảo thường được tìm thấy như một thành phần mỹ phẩm và một loại lotion từ cây được cho là kích thích mọc tóc và ngăn ngừa hói đầu [2].

Y học cổ truyền của Hungary đã điều chế một loại nước thuốc đặc biệt có thành phần từ hương thảo và rượu dùng để chữa tình trạng liệt và bệnh gút.

Ngày nay, tinh dầu Hương thảo là sản phẩm có triển vọng tốt cho các ngành công nghiệp dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm bởi thành phần hóa học của nó với các đặc tính có lợi, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đối với các sản phẩm tự nhiên.

Thận trọng

Một số tác dụng phụ khi dùng hương thảo quá liều:

Kích ứng dạ dày và ruột: Tiêu thụ một lượng lớn hương thảo có thể gây kích ứng dạ dày và ruột, cũng như gây tổn thương thận.

Viêm da tiếp xúc dị ứng: Một số người có thể bị viêm da tiếp xúc dị ứng khi tiếp xúc với hương thảo, mặc dù hương thảo không được coi là chất gây nhạy cảm da phổ biến ở người.

Gây co giật: Các thành phần trong hương thảo, đặc biệt là monoterpene ketones, có thể gây co giật khi dùng với liều lượng lớn. Tinh dầu hương thảo có thể gây độc nếu nuốt phải. Số lượng lớn lá hương thảo có thể gây ra các phản ứng phụ như hôn mê, co thắt, nôn mửa và phù phổi (chất lỏng trong phổi) có thể gây tử vong.

Gây sảy thai: Hương thảo cũng có tác dụng gây sảy thai.

Vì vậy, cần thận trọng khi sử dụng hương thảo, đặc biệt là ở liều lượng lớn.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/huong-thao.html/feed 0
Bại tượng hoa trắng https://tracuuduoclieu.vn/bai-tuong-hoa-trang.html https://tracuuduoclieu.vn/bai-tuong-hoa-trang.html#respond Fri, 31 Dec 2021 04:24:59 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=64071 Bại tượng hoa trắng 1

Patrinia villosa (Thunb.) Juss.

Mô tả

  • Cây thảo cao đến 1m, thân có lồng mềm dài.
  • Lá ở phía dưới thân kép lông chim, lá chét xoan, thuôn cả 2 đầu đến hẹp, mép có răng, 2 mặt có lông; lá ở phía trên đơn, có cuống dài.
  • Chùy hoa dạng ngủ ở ngọn. Hoa nhỏ màu trắng; đài là ống có răng nhỏ; tràng có ống dài mang 5 tại gần bằng nhau; nhị 5, đính trên ống tràng; bầu 3 ô.
  • Quả khô dính vào lá bắc mỏng, xoay tròn, mép nguyên, đỉnh có 3 thuỳ; hạt 1.
  • Ra hoa tháng 5-6, có quả tháng 1-2 năm sau.

Phân bố, sinh thái

Cây mọc rải rác trên các trảng cỏ.

Phân bố: Cao Bằng, Lạng Sơn. Còn có ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản…

Bộ phận dùng:

  • Toàn cây – Herba Patriniae, gọi là Bại tượng thảo
  • Thu hái vào mùa hạ trước khi có hoa nở, rửa sạch thái nhỏ phơi trong râm.

Tính vị, công năng

Vị cay, đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khư ứ bài nung.

Công dụng

Thường dùng trị: Viêm ruột thừa, kiết lỵ, viêm dạ dày ruột, viêm gan, viêm kết mạc, sản hậu huyết ứ đau bụng, mụn nhọt, ghẻ ngứa.

 

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/bai-tuong-hoa-trang.html/feed 0
Cà gai leo https://tracuuduoclieu.vn/ca-gai-leo.html https://tracuuduoclieu.vn/ca-gai-leo.html#respond Thu, 02 Dec 2021 00:05:34 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/ca-gai-leo/ Cà gai leo 1

Hình 1: Cà gai leo (Solanum hainanense Hance)

Mô tả

  • Cây nhỏ leo, sống nhiều năm, dài khoảng 1m hay hơn. Thân hóa gỗ ở gốc, nhẵn, phân cành nhiều; cành non tỏa rộng, phủ lông hình sao và rất nhiều gai cong màu vàng.
  • Lá mọc so le, hình bầu dục hay thuôn, gốc tròn hoặc hình nêm, đầu tù; phiến lá to có thùy nông không đều, mặt trên sẫm, mặt dưới nhạt phủ đầy lông tơ màu trắng; hai mặt đều có gai ở gân chính nhất là mặt trên; cuống lá cũng có gai.
  • Hoa màu trắng hoặc hơi phớt tím mọc thành xim 2 – 5 hoa ở kẽ lá, ít khi 7 – 9; đài có lông, xẻ thành 4 thùy hình trái xoan nhọn; nhị màu vàng, chỉ nhị phình ở gốc.
  • Quả mọng, hình cầu nhẵn, có cuống dài, màu vàng, khi chín màu đỏ, đường kính 5 – 7 mm; hạt hình thận màu vàng.
  • Mùa hoa: tháng 4 -6; mùa quả: tháng 7 -9.

Mô tả 1

Lưu ý, nhiều người hay nhầm lẫn cà độc dược và cà dại hoa trắng với cà gai leo và sử dụng sai có thể gây ra nhiều tác dụng phụ không mong muốn. Nhất là cà độc dược, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng nếu sử dụng không đúng cách. Các triệu chứng ngộ độc cà độc dược bao gồm giãn đồng tử, mắt mờ, tim đập nhanh, khô miệng và cổ họng, và trong trường hợp nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong…

Xem chi tiết bài viết: Phân biệt cà dại với cà gai leo

Phân bố sinh thái

Cà gai leo là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, thường mọc tập trung nhiều cá thể, lẫn trong các lùm bụi thưa quanh làng, bãi hoang, kể cả các bụi tre gai. Cây mọc ở chỗ nhiều ánh sáng, sinh trưởng phát triển tốt, ra nhiều hoa quả. Cà gai leo có khả năng tái sinh từ hạt hoặc từ các phần thân và gốc còn lại sau khi chặt. Ngoài ra, từ các đoạn thân và cành trồng vào mùa xuân cũng có thể mọc thành cây mới.

Cà gai leo phân bố chủ yếu ở một vài nước nhiệt đới Châu Á như Campuchia, Thái Lan, đảo Hải Nam – Trung Quốc. Tại Việt Nam, vùng phân bố cà gai leo tương đối phong phú, trải dọc khắp các tỉnh ven biển từ Hải Phòng đến Bình Thuận. Đặc biệt, tổng sản lượng của các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào có thể đạt vài chục tấn nguyên liệu mỗi năm.

Vùng trồng cà gai leo lớn nhất Việt Nam đạt chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái của Tổ chức Y tế thế giới (GACP – WHO) hiện nay có diện tích 15ha nằm tại xã Mỹ Thành, Mỹ Đức, Hà Nội, thuộc quyền sở hữu của công ty TNHH Tuệ Linh.
Phân bố sinh thái 1

Hình 2: Vùng trồng Cà gai leo lớn nhất Việt Nam đạt chuẩn GACP-WHO tại Mỹ Thành, Mỹ Đức, Hà Nội

Cách trồng

Cà gai leo có thể được nhân giống bằng hạt, giâm cành, hoặc bằng công nghệ sinh học. Hạt cà gai leo tuy dễ nảy mầm, nhưng hệ số nhân giống không cao do cây ít quả, quả nhỏ và ít hạt. Hơn nữa, cây nhân giống bằng hạt có chất lượng không đồng đều, gây khó khăn cho việc tiêu chuẩn hóa nguyên liệu. Nhân giống bằng giâm cành cho hệ số nhân thấp và lại phải sử dụng chính nguyên liệu để nhân giống. Cây nhân giống bằng công nghệ sinh học có hệ số nhân khá hơn, chất lượng dược liệu đồng đều nhưng giá thành hơi cao. Phương hướng chung là sử dụng phương pháp giâm cành và công nghệ sinh học để nhân nhanh giống, chọn lọc tạo ra một lượng giống nguyên chủng cần thiết, sau đó dùng phương pháp nhân giống bằng hạt để cung cấp cây con cho sản xuất.

Thời vụ gieo hạt tốt nhất là tháng 2-3. Hạt nảy mầm sau 7-10 ngày. Hạt có thể gieo trong vườn ươm, khi cây con cao 10 – 12 cm thì đánh đi trồng, hoặc gieo thẳng theo hốc, mỗi hốc 3 -4 hạt. Khi cây cao 7 – 10 cm thì tỉa bớt, mỗi hốc giữ lại 1 cây khỏe mạnh nhất. Nếu giâm cành thì vào tháng 2 – 3, chọn cành bánh tẻ chặt thành đoạn dài 12 – 15 cm, giâm vào bầu và tưới ẩm thường xuyên. Khi cây mọc chuyển trồng ra ruộng (chú ý hủy bầu). Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng phương pháp nhân giống bằng công nghệ sinh học trong các cơ sở nghiên cứu tạo giống ban đầu.

Đất trồng cà gai leo là nơi nhiều mùn, thoát nước. Sau khi cày bừa kỹ, để ải, cần bón lót 10 -15 tấn phân chuồng hoai mục, 100 – 150 kg phân lân, 50 – 70 kg kali cho mỗi hecta và lên luống cao 25 – 30 cm, rộng 70 – 80 cm. Cây trồng hoặc gieo thẳng đều định khoảng cách 50 x 50 cm.

Cà gai leo chịu hạn khá tốt, nhưng muốn có năng suất cao vẫn cần tưới đủ ẩm thường xuyên. Mỗi tháng làm cỏ, xới xáo một lần, kết hợp bón thúc bằng nước phân chuồng, nước  giải hoặc đạm pha loãng (2%).

Bệnh hại đáng kể đối với cà gai leo là rệp bột (Pseudococcus sp.). Có thể trừ diệt bằng cách phun Bitox 40 EC theo hướng dẫn ghi trên nhãn. Tuy nhiên, cà gai leo được trồng theo tiêu chuẩn GACP-WHO sẽ không được phép sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình canh tác.

Cách trồng 1

Hình 3: Hướng dẫn cách trồng cà gai leo

Bộ phận dùng

Rễ và cành lá cà gai leo, thu hái quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi hay sấy khô. Có khi dùng tươi.

Đọc thêm: Lưu ý khi dùng cà gai leo tươi

Thành phần hóa học

Theo Đỗ Tất Lợi, toàn cây và nhiều nhất là rễ CGL chứa alcaloid, tinh bột, saponosid, flavonoid.

Rễ và lá cà gai leo chứa cholesterol, β – sitosterol, lanosterol, dihydrolanosterol; alcaloid mới là solasodenon; hai aglycon là solasodin và neochlorogenin. Ngoài ra, rễ còn chứa 3β – hydroxyl – 5α – pregnan – 16 – on. Khi thủy phân dịch chiết rễ, phần đường thu được gồm D-glucose, D-galactose, L-rhamnose (Hoàng Thanh Hương).

Theo Dictionary of Natural Products on CD-ROM (1997) và Trung dược từ hải (1997), Cà gai leo có chứa solasodenon và 3β – hydroxyl – 5α – pregnan – 16 – on.

Tác dụng dược lý

Phản ứng viêm:

Trong mô hình gây phù thực nghiệm chân chuột bằng kaolin tạo nên giai đoạn cấp tính của phản ứng viêm tương ứng với những biến đổi về mạch máu gây thoát huyết tương ở khoảng ngoài tế bào, rễ và thân lá cà gai leo có tác dụng ức chế phù rõ rệt (rễ với liều 13.5/ kg và thân lá với liều 22.5 kg trở lên).

  • Đối với giai đoạn bán cấp của phản ứng viêm tương ứng với sự tạo thành tổ chức hạt, trong mô hình gây u hạt thực nghiệm với amian, rễ và thân lá cà gai leo có tác dụng ức chế rõ rệt (rễ với liều từ 5g/kg và thân lá từ 10g/kg chuột trở lên).

Tác dụng miễn dịch:

  • Tuyến ức có vai trò quan trọng trong sự hình thành hệ thống miễn dịch của cơ thể, rễ và thân lá cà gai leo có tác dụng gây thu teo tuyến ức chuột cống non rõ rệt (rễ với liều 7.5 g/kg và thân lá với liều 15g/kg chuột trở lên)

Tác dụng gây độc:

Chỉ số tán huyết của rễ cà gai leo xác định bằng phương pháp Brunel là 13. Cà gai leo tỏ ra không độc trong thí nghiệm về độc tính cấp và bán cấp.

Sơ bộ nghiên cứu định lượng sinh học hoạt lực chống viêm cho thấy1 g rễ cà gai leo khô tương ứng với 2.5 mg hydrocortisone, và 1 g thân lá cà gai leo chứa 1.3 mg hydrocortisone.

  • Đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ của rễ cây cà gai leo chống độc lực của nọc rắn Cobra trên chuột nhắt trắng và thấy cà gai leo có tác dụng bảo vệ chuột thí nghiệm chống độc lực của liều cao nọc rắn, làm tăng một cách có ý nghĩa tỷ lệ chuột sống sót so với chuột đối chứng không uống cà gai leo.

Tác dụng chống co thắt phế quản:

  • Đã nghiên cứu thăm dò khả năng chống co thắt phế quản của cà gai leo bằng phương pháp khí dung histamin của Armitage và thấy cà gai leo có tác dụng kéo dài thời gian chịu đựng của chuột được uống thuốc và đặt trong buồng khí dung, làm thời gian triệu chứng khó thở xuất hiện chậm hơn so với chuột đối chứng không uống cà gai leo.

Tác dụng ngăn chặn xơ gan trên mô hình thực nghiệm:

Tác dụng dược lý 1Hình 4: Tiến triển bệnh xơ gan

Việc nghiên cứu thăm dò khả năng ngăn chặn tiến triển xơ gan của cà gai leo trên mô hình thực nghiệm của Maros cho thấy sau 3 tháng gây xơ gan trên chuột cống trắng, xơ gan hình thành rõ rệt, thể hiện trên các chỉ tiêu hóa sinh và tổ chức học của gan.

  • Cà gai leo với liều cho uống ngày 6g/kg thể trọng chuột, tuy không ngăn chặn được hoàn toàn quá trình xơ hóa, nhưng có tác dụng làm chậm sự tiến triển của xơ.
  • Hàm lượng collagen trong gan ở lô chuột dùng cà gai leo chỉ bằng 71% so với lô chuột chứng gây xơ không dùng thuốc.
  • Về mặt tổ chức học, thí nghiệm cho thấy toàn bộ chuột chứng gây xơ đều bị xơ nặng hoặc vừa, còn ở lô dùng cà gai leo hầu hết chỉ xơ nhẹ hoặc không xơ.

Tính vị công năng

Cà gai leo có vị hơi the, tính ấm, chứa lượng độc tố không đáng kể nên đảm bảo an toàn khi dùng, có tác dụng tiêu độc, phát tán, trừ ho, cẩm máu, giảm đau, trừ phong thấp, trị thoái hóa xương khớp.

Công dụng

Cà gai leo là cây thuốc nam có rất nhiều công dụng tốt với sức khỏe, chẳng hạn như:

– Giải độc gan: Dịch chiết cà gai leo có tác dụng bảo vệ gan khỏi chất độc bằng cách kích thích quá trình bài tiết và chuyển hóa các chất độc hại trong gan, từ đó ngăn chặn tổn thương nhu mô gan, giúp bảo tồn cấu trúc tế bào gan.

Tìm hiểu thêm: Công dụng cải thiện gan nhiễm mỡ của cà gai leo

– Ức chế xơ gan, hỗ trợ điều trị viêm gan B: Hoạt chất glycoalcaloid trong cà gai leo có khả năng ức chế sự nhân lên của virus viêm gan B, giảm nồng độ virus này trong máu đồng thời kích thích phục hồi tế bào gan. Không những vậy, hoạt chất glycoalcaloid còn có tác dụng kháng viêm, chống oxy hóa, ngăn chặn hình thành các sợi collagen trong gan từ đó ức chế xơ gan hiệu quả.

– Trị rắn cắn: Các hoạt chất có trong rễ cà gai leo có tác dụng tiêu độc, giảm nguy cơ nhiễm trùng và biến chứng do rắn cắn.

– Chữa hen suyễn, ho gà: Dịch chiết cà gai leo có khả năng làm ổn định tế bào mast, hạn chế sản xuất các chất trung gian gây co thắt đường thở, từ đó giảm các triệu chứng hen phế quản, ho gà

– Chữa phong thấp: Trong rễ và dây cà gai leo có chứa các thành phần như alkaloid, tinh bột, flavonoid nên có tác dụng rất tốt trong chữa phong thấp, đau nhức gân xương.

– Chữa cảm cúm: Hoạt chất flavonoid và alkaloid trong cà gai leo có khả năng chống viêm, kháng khuẩn tốt nên có thể sử dụng để chữa cảm cúm.

– Chữa dị ứng: Cà gai leo giúp ức chế sự phân hủy của tế bào mast, điều chỉnh sự giải phóng của các interleukin, từ đó giúp kiểm soát dị ứng cùng các tình trạng viêm nhiễm khác

– Phòng chống ung thư: Hoạt chất glycoalkaloid trong cà gai leo có tính chống oxy hóa mạnh, giúp bảo vệ tế bào khỏi sự tấn công của các gốc tự do, từ đó phòng chống nguy cơ ung thư.

Ngoài công dụng trên, cà gai leo còn được nhân dân ở một số nơi dùng chữa say rượu. Người ta cho rằng trong sau khi uống rượu, thỉnh thoảng xát răng bằng rễ cà gai leo thì tránh được say. Nếu đã bị say, uống nước sắc của rễ.

Bài thuốc dân gian có cà gai leo

Bài thuốc dân gian có cà gai leo 1

Hình 5: Sử dụng cà gai leo khô chữa bệnh

Chữa viêm gan B, xơ gan, giải độc gan:

Dùng 35g rễ hoặc thân lá cà gai leo sắc với 1 lít nước, đến khi lượng nước còn 1/3 thì chia làm 3 phần uống trong ngày

Chữa rắn cắn:

Theo kinh nghiệm dân gian Lào, khi bị rắn cắn mà vết thương sưng tấy, nhức nhối, để cấp cứu kịp thời, có thê lấy 30 – 50 g rễ cà gai leo tươi, rửa sạch, giã nhỏ, hòa với khoảng 200 ml nước đun sôi để nguội, chắt nước cho người bị nạn uống tức thì. Ngày uống 2 lần. Người bị nạn sẽ cảm thấy dễ chịu ngay, bớt đau nhức, ngủ được. Sang ngày sau, tiếp tục cho uống nước sắc rễ cà gai leo phơi khô (10 – 30 g rễ khô, chặt nhỏ, sao vàng, nấu với 600 ml nước còn khoảng 200 ml). Mỗi ngày uống 2 lần. Dùng 3 – 5 ngày là khỏi hẳn.

Với bài thuốc trên, bệnh viện Hưng Nguyên ở Nghệ An đã chữa khỏi hoàn toàn 14 trường hợp bị rắn cắn, trong đó có một vài trường hợp bị nặng.

Chữa tê thấp:

Rễ cà gai leo, rễ thổ phục linh, rễ xích đồng nam, dây chiều, dây gắm, dây mặt quỷ, dây tơ xanh, vỏ thân ngũ gia bì (mỗi thứ 1kg), dây đau xương, cành hoặc lá vông nem (mỗi thứ ½ kg). Tất cả chặt nhỏ, nấu với nước nhiều lần để được 1 lít cao. Thêm 500g đường, cô còn 700 ml . Để nguội. Đổ rượu 30⁰ vào cao cho đủ thành 1 lít. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 ml. (Kinh nghiệm của hợp tác xã Hợp Châu).

Chữa ho, ho gà:

Rễ cà gai leo (10g), lá chanh (30g). Sắc uống làm 2 lần trong ngày

Chữa phong thấp:

  • Rễ cà gai leo, rễ xấu hổ, thổ phục linh, rễ cỏ xước, kê  huyết đằng, rễ cỏ tranh, mỗi vị 16 g. Sắc uống.
  • Rễ cà gai leo, vỏ chân chim, rễ cỏ xước, dây đau xương, kê huyết đằng, rễ tầm xuân, mỗi vị 20 g. Sắc uống.
  • Chữa tê thấp, bàn chân tê buốt, sợ nước, sợ lạnh, khớp xương đau buốt:
  • Rễ cà gai leo, rễ lá lốt, quýt rừng, rễ gấc, rễ xuyên tiêu, cốt khí củ, mỗi vị 20 – 30g. Sắc uống.

Chữa sưng mộng răng:

Hạt cà gai leo 4g tán nhỏ, cho vào nồi đồng với một ít sáp ong, đốt lá lấy khói xông vào chân răng (Bách gia trân tàng).

Bài thuốc dân gian có cà gai leo 2

Hình 6: Hạt cà gai leo

Trị cảm cúm, dị ứng, hen suyễn, đau nhức xương khớp:

Dùng 16 – 20g rễ hoặc thân lá cà gai leo dưới dạng thuốc sắc, uống trong ngày.

Phòng ung thư:

Cà gai leo 30g, diệp hạ châu 10g, dừa cạn 10g, mỗi ngày sắc uống 1 thang, liên tục từ 10-30 ngày.

Giải rượu:

  • Sắc 100g cà gai leo khô với 400ml nước đến khi cạn còn 150ml. Dùng uống trong ngày khi còn ấm
  • Hãm 50g cà gai leo khô với nước sôi như trà, xong lấy cho người say rượu uống đến khi tỉnh.

Hỏi đáp: Uống cà gai leo có đắng không? Có dễ uống không?

Các chế phẩm của cà gai leo đã được ứng dụng điều trị trên lâm sàng

Solamin A (bào chế từ 3 dược liệu rễ cà gai leo, rễ khúc khắc và rễ ngưu tất) và Solamin B (bào chế từ 2 dược liệu thân lá cà gai leo và rễ ngưu tất) có tác dụng chống viêm và giảm đau rõ rệt trên lâm sàng. Kết quả tốt nhất và tương đối nhanh với đau lưng cấp do lạnh và sang chấn. Đối với viêm đa khớp dạng thấp, chưa có biến dạng về khớp và đối với các chứng đau nhức đơn thuần, tác dụng điều trị tương đối tốt. Khi đã có biến dạng về xương, cơ, khớp, kết quả kém. Thuốc không gây tác dụng phụ gì đáng kể, cần chú ý uống thuốc sau bữa ăn để tránh kích ứng niêm mạc dạ dày. Xét về mặt y lý đông y, Solamin có tính bình (không nóng, không lạnh) nên có thể thích hợp với các bệnh nhân thấp khớp ở thể nhiệt. Những bệnh nhân này khi uống thuốc bổ huyết khu phong bị nóng sinh ra táo bón, ngứa, mề đay, mất ngủ.

A.P.D. bào chế từ cà gai leo, ngưu tất và sâm đại hành, trong đó thành phần chính là cà gai leo. Thuốc đã chữa khỏi các đợt cấp tính của chứng viêm quanh răng, viêm lợi mủ, viêm chân răng và làm chậm lại thời kỳ tái phát của bệnh. Hiệu quả điều trị bằng A.D.P. không kém gì so với các phương pháp chữa tây y. A.P.D. có tác dụng tốt điều trị viêm cấp tính vùng niêm mạc miệng, phối hợp với phương pháp chữa tây y, thời gian điều trị rút ngắn nhiều. Thuốc dễ dùng, không độc, không gây kích ứng niêm mạc, không gây viêm lợi thứ phát.

Livganic bào chế từ cà gai leo và mật nhân, trong đó thành phần chính là cà gai leo. Livganic đã được nghiên cứu trên 33 bệnh nhân viêm gan B mạn tính thể hoạt động tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108 trong vòng 6 tháng. Kết quả cho thấy các triệu chứng lâm sàng như mệt mỏi, chán ăn, gan to, đau hạ sườn phải, vàng da đều giảm nhanh sau 1 tháng điều trị và hết hoàn toàn sau 2 tháng điều trị. Sau 6 tháng điều trị, hoạt động của 2 enzyme AST và ALT trở về bình thường, nồng độ HBV

Haina bào chế từ dạng chiết toàn phần của cà gai leo được chứng minh có tác dụng hạn chế sự phát triển xơ gan, chống viêm, chống oxy hóa và chống colagense. Haina được thử nghiệm lâm sàng chữa viêm gan mạn và viêm gan virus B có kết quả tốt.

Các nghiên cứu khoa học về tác dụng chống viêm gan và chống xơ gan của cà gai leo

Đề tài 1: Đề tài “Nghiên cứu Cây gai cà leo làm thuốc chống viêm và ức chế xơ gan” do TS. Nguyễn Thị Minh Khai làm chủ nhiệm.

Kết quả đề tài đã chứng minh glycoalcaloid trong cao toàn phần Cà gai leo là hoạt chất chính có tác dụng ức chế sự phất triển của xơ gan, chống viêm, bảo vệ gan. Đề tài cũng đã nghiên cứu phát hiện những tác dụng dược lý mới của Cà gai leo như tác dụng trên hệ miễn dịch, trên tế bào ung thư.

Đề tài 2: Đề tài “Nghiên cứu điều trị hỗ trợ bệnh nhân viêm gan virus B mãn tính thể hoạt động bằng thuốc Haina (lâm sàng giai đoạn 3)” do TS. Nguyễn Thị Minh Khai làm chủ nhiệm.

Thuốc Haina với thành phần là cà gai leo được đưa vào thử nghiệm lâm sàng trên 30 người tình nguyện là các bệnh nhân viêm gan B mạn thể hoạt động tại Viện Quân Y 103. Kết quả điều trị cho thấy Haina có tác dụng rất khả quan. Cụ thể, ở nhóm bệnh nhân được điều trị bằng Haina, các triệu chứng lâm sàng giảm nhanh hơn, đặc biệt có 23,3% bệnh nhân mất HbsAg và 44% bệnh nhân xuất hiện anti-Hbe.

Đề tài 3: Đề tài “ Đánh giá kết quả bước đầu của viên Giải Độc Gan Tuệ Linh trong hỗ trợ điều trị viêm gan virus B mạn tính” do TS. Nguyễn Ngọc Quang – Chủ nhiệm khoa truyền nhiễm Bệnh viện TW Quân đội 108 làm chủ nhiệm đề tài.

Qua theo dõi đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị của viên giải độc gan Tuệ Linh ở 33 bệnh nhân viêm gan B mạn tuổi từ 19 đến 66 điều trị tại Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện TW Quân đội 108 từ 05/2011 đến 05/2012, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

Các triệu chứng lâm sàng giảm nhanh và hết sau điều trị 1 tháng. Tỷ lệ bình thường hóa các enzym AST, ALT sau 1 tháng điều trị lần lượt, tương ứng 24,2% và 63,6%; tỷ lệ bình thường hóa các enzym AST, ALT tăng theo thời gian (lần lượt tương ứng 60,6% và 72,7% sau 6 tháng điều trị) với trị số trung bình AST 48,2 ± 37,4 U/L và ALT 52,3 ± 49,6 U/L. Không có bất cứ một tác dụng ngoại ý nào trên cả lâm sàng cũng như xét nghiệm trong quá trình nghiên cứu.

Sau 6 tháng điều trị:

  • Nồng độ HBV-DNA về dưới ngưỡng phát hiện ở 3/33 (9,1%) trường hợp; 13/33 (39,4%) bệnh nhân có nồng độ HBV-DNA giảm  ≥ 2log10-6log10.
  • Tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh với Hbe là 37,5% và 54,5% các trường hợp có anti-Hbe chuyển dương tính sau điều trị ở những bệnh nhân có anti-Hbe âm tính. HbsAg chuyển âm tính ở 2/33 (6,1%) trường hợp.
  • Theo báo cáo tổng hợp kết quả đề tài cho thấy các triệu chứng như mệt mỏi, chán ăn, gan to, đau hạ sườn phải, vàng da ở bệnh nhân giảm nhanh và hết hoàn toàn sau 2 tháng điều trị. Men gan (AST và ALT) về bình thường sau 6 tháng lần lượt là 60,6% và 72,7%.
  • Các xét nghiệm nồng độ vi rút ở trong máu bệnh nhân cho thấy: sau điều trị bằng viên Giải độc gan Tuệ Linh có 39,4% bệnh nhân có nồng độ vi rút giảm trên 100 lần, 18% bệnh nhân giảm tới ngưỡng không thể phát hiện được. Đặc biệt có 2 bệnh nhân âm tính HbsAg (chiếm 6,1%).

Các bác sĩ cũng khẳng định chưa tìm thấy một tác dụng phụ nào của  viên Giải độc gan Tuệ Linh, đây cũng là ưu điểm thường thấy ở các sản phẩm có nguồn gốc thảo dược. “Kết quả đạt được của đề tài là rất khả quan và đặc biệt, bởi từ trước cho đến này chưa có dược liệu nào được chứng minh có thể làm âm tính virus viêm gan B và giảm nồng độ virus mạnh như vậy.”- Trích lời PGS.TS Mai Hồng Bàng – Giám đốc Bệnh viện TW Quân đội 108.

Các sản phẩm có thành phần Cà gai leo trên thị trường hiện nay

Giải độc gan Tuệ Linh

Giải độc gan Tuệ Linh 1

Giải độc gan Tuệ Linh – Tăng cường chức năng gan trong các trường hợp viêm gan virut, xơ gan, men gan cao

♦ Giải độc gan Tuệ Linh là sản phẩm kết hợp giữa Cao Cà gai leo và Cao Mật nhân, được nghiên cứu lâm sàng chứng minh mang lại hiệu quả hỗ trợ điều trị viêm gan virus, đặc biệt là viêm gan virus B mạn tính thể hoạt động; giúp bảo vệ và phục hồi tế bào gan, giúp tăng cường chức năng giải độc của gan, giúp giảm men gan và giúp làm chậm sự phát triển của xơ gan.

♦ Giải độc gan Tuệ Linh phù hợp với người bị chức năng gan suy giảm do viêm gan virus, viêm gan B mạn tính, xơ gan; người bị men gan cao; người uống rượu bia nhiều, tiếp xúc với hóa chất độc hại.

Giải độc gan Tuệ Linh Plus

Giải độc gan Tuệ Linh Plus 1

Giải độc gan Tuệ Linh plus – Sản phẩm chuyên biệt cho người viêm gan virus, xơ gan, người uống nhiều bia rượu

Thành phần:

  • Cao khô cà gai leo: 500mg
  • Cao khô mật nhân: 150mg
  • Cao khô kế sữa: 100mg
  • Cao khô actiso: 50mg
  • Cao khô khúng khéng: 50mg

Công dụng:

  • Hỗ trợ giải độc gan, hỗ trợ tăng cường chức năng gan trong viêm gan virus, xơ gan, người uống nhiều rượu bia, thuốc có hại cho gan.
  • Hỗ trợ giảm triệu chứng: men gan cao, vàng da, mệt mỏi, chán ăn, mẩn ngứa do chức năng gan kém.

Câu hỏi thường gặp về cà gai leo?

1. Cà gai leo có mấy loại? Loại nào tốt?

1. Cà gai leo có mấy loại? Loại nào tốt? 1

Cà gai leo có 2 loại là cà gai leo hoa trắng và cà gai leo hoa tím. Trong đó, cà gai leo hoa trắng có dây nhỏ hơn và dược tính cao nên được dùng làm thuốc, còn cà gai leo hoa tím có dây lớn hơn, ít dược tính hơn nên không được sử dụng làm thuốc mà thường trồng làm hàng rào.

2. Uống cà gai leo có tác dụng phụ không?

Cà gai leo nếu sử dụng ở dạng chiết xuất toàn phần hoặc dạng thô với liều lượng 20-30g/ngày thì sẽ không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nào. Còn nếu sử dụng với liều lượng quá lớn trong một thời gian dài, bạn có thể bị ngộ độc.

Hỏi đáp:

3. Những ai không nên uống cà gai leo?

Tuy cà gai leo là một dược liệu có nhiều công dụng tốt cho sức khỏe nhưng không phải ai cũng có thể sử dụng thảo dược này. Những đối tượng thuộc nhóm khuyến cáo không nên sử dụng cà gai leo gồm: Phụ nữ mang thai; Trẻ em dưới 2 tuổi; Người mắc bệnh thận; Người đang áp dụng phác đồ điều trị đặc biệt; Người mắc các bệnh mãn tính như tim mạch, tiểu đường…

4. Bị đau dạ dày có uống được cà gai leo không?

Cà gai leo không gây ảnh hưởng lên dạ dày nên người bị đau dạ dày vẫn có thể uống cà gai leo bình thường và tốt nhất nên uống sau ăn khoảng 20 phút. Chú ý uống đúng liều lượng theo quy định và hỏi ý kiến bác sĩ nếu bạn đang điều trị các bệnh mãn tính.

5. Uống cà gai leo có hại thận?

Hiện vẫn chưa có nghi nhận hay nghiên cứu nào nào chứng minh tác hại của cà gai leo với thận nên các bạn hoàn toàn có thể yên tâm sử dụng loại thảo dược này. Tuy nhiên, với những người đang mắc bệnh lý về thận thì cần hỏi ý kiến bác sĩ về trường hợp của mình xem có được sử dụng cà gai leo không nhé.

Trên đây là một số thông tin về hình ảnh, liều lượng công dụng của cây Cà gai leo. Nếu cần tư vấn và tìm hiểu thêm về cây Cà gai leo và các loại cây dược liệu khác bạn có thể liên hệ qua số tổng đài tư vấn: 1800.1190 (miễn phí tư vấn) hoặc đặt câu hỏi của bạn ở mục ý kiến ở cuối bài viết, Tra cứu dược liệu sẽ giải đáp những thắc giúp bạn có thêm những thông tin đáng tin cậy.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/ca-gai-leo.html/feed 0
Bạch nhất hồng https://tracuuduoclieu.vn/bach-nhat-hong.html https://tracuuduoclieu.vn/bach-nhat-hong.html#respond Tue, 03 Aug 2021 03:31:30 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57582 Mô tả
  • Cây Bạch nhất hồng hay còn gọi là cây Tử vi
  • Cây nhỡ, cao 3 – 5m. Thân cành hình trụ hoặc 4 cạnh, vỏ nhẵn màu nâu xám.
  • Lá mọc đối, đối 1 mọc so le, dài 3 – 7 cm, rộng 2,5 – 4 cm, có sống ngắn, hình trái xoan ngược, gốc thuôn, đầu hoặc hơi nhọn, mặt trên xanh sẫm bóng, mặt với nhạt; nhẵn hoặc có ít lông.
  • Cụm hoa mọc thành chuỳ ở đầu cành, dài 20 cm, trục hoa có cạnh và 4 cánh mỏng, hoa màu hồng, trắng, đôi khi tía; đài hình chuông, nhẵn, có ống 5 – 6 mm; cánh hoa 6, có móng dài, phiến nhăn nheo, nhị 36 – 42; bầu nhẵn, 5 – 6 ô.
  • Quả nang, hình cầu, cao 1 – 1,2 cm, nằm trong đài tồn tại, hạt có cánh.
  • Mùa hoa: tháng 6 – 8.

Phân bố, sinh thái

Tử vi có lẽ có nguồn gốc ở Ấn Độ, về sau được du nhập và trồng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, hiện không rõ tử vi được nhập trồng từ bao giờ; chỉ biết rằng ở một số đình chùa phía Bắc có những cây tử vi to, ước tính cả trăm tuổi. Cây cũng được trồng làm cảnh ở các công viên, nơi công sở hay vườn gia đình.

Tử vi là cây ra sáng, có thể trồng được trên nhiều loại đất; trong điều kiện nghèo dinh dưỡng, tử vi còn trở thành cây bon sai đẹp. Cây ra hoa quả nhiều hằng năm. Trồng được bằng hạt hoặc bằng cành chiết.

Bộ phận dùng:

Rễ, hoa, vỏ thân.

Thành phần hoá học

  • Cây tử vi chứa alcaloid lagerin và nhiều chất khác: decamin, decinin, decodin, dehydroverticillatin, lagerstroemin.
  • Rễ chứa sitosterol và acid 3, 3’ 4 – tri – O – methylellagic
  • Hoa chứa delphinidin 3 – arabinosid, petunidin – 3 – arabinosid và malvidin – 3 – arabinosid, acid gallic, methyl gallat và acid ellagic.
  • Lá chứa pageracetal, alcol amylic và acid ellagic.

Tính vị, công năng

Rễ và vỏ thân có vị hơi đắng, chát, tính bình, có tác dụng hoạt huyết, chỉ huyết, khu phong thanh nhiệt, giải độc.

Theo “Vân Nam ban thao”, hoa từ vị hơi chua, tính hàn, có tác dụng chí huyết, giải độc, huyết ứ.

Tác dụng dược lý

Tác dụng kháng thronibin:

Dùng thử nghiệm sinh học để xác định tác dụng kháng thrombin các cao chiết bằng methanol của 30 cây ở miền Trung Florida. Kết quả cho thấy có 7 cây có hoạt tính kháng thrombin từ 80% trở lên là tử vi, trọng đũa, thông thảo, tràm bông đỏ và 3 cây khác chưa thấy ở Việt Nam [Chistokhodova N. et al., 2002, J. Ethnopharmacology, Vol 81 (2): 277 – 280].

Công dụng

Nhân dân dùng hoa tử vi trị sản hậu, máu kết thành hòn cục, đới hạ, sốt, vỏ thân trị đau bụng, bế kinh, lở ngứa ngoài da; rễ trị mụn nhọt sưng đau, ghẻ lở ở đầu mặt, chân tay, còn chữa viêm tuyến vú, viêm gan, bụng trướng, các trường hợp xuất huyết.

Liều lượng: ngày 3 – 9g hoa hoặc 10 – 15g rễ hoặc vỏ thần sắc uống, hãm uống hoặc ngâm rượu uống. Dùng ngoài, không kể liều lượng.

  • Ở Ấn Độ, lá tử vi được dùng để nhuận tràng, tẩy, lợi tiểu, khai thông và thân là thuốc kích thích và chữa sốt, nước hãm vỏ thân chữa đau dạ dày và tiêu chảy, rễ sẵn se và cũng có công dụng như vỏ thân; quả tử vi khó chữa đái tháo đường.
  • Ở Trung Quốc, nhân dân còn dùng bột vỏ cây tử vi nấu với thịt lợn, ăn để điều trị thấp khớp. xuất huyết tử cung, các bệnh nội thương [Perry và Metzger, 1980, Med. Plants of East and Southeast , The MIT Press, Cambridge – Massachusetts, London.p248].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/bach-nhat-hong.html/feed 0
Nắp ấm hoa đôi https://tracuuduoclieu.vn/nap-am-hoa-doi.html https://tracuuduoclieu.vn/nap-am-hoa-doi.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:24:01 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57048 Mô tả
  • Cây leo, sống một năm, cao 0,5 – 2m. Thân mảnh, hình trụ, màu xanh lục nhạt.
  • Lá mọc so le, hình bầu dục – thuôn, thường dài 10 – 25 cm, có cuống khá dài nửa ôm thân và có cánh, gốc thuôn, đầu kéo dài thành cuống mảnh mang một phần hình trụ phình lên như cái bình có nắp tròn, bên trong có nhiều tuyến tiết, hai mặt có những đốm tía, mép nguyên hoặc hơi khía răng, gân phụ 5 – 7 đôi có nhiều gân ngang song song, tua cuốn ngắn hoặc dài bằng lá.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm mảnh, dài 20 – 40 cm; cụm hoa đực có nhiều nhị xếp thành hai dãy; cụm hoa cái có bầu hình trứng hoặc elip, phủ lông trắng.
  • Quả nang dài 1,5 – 3 cm, màu nâu, khi chín nứt thành 4 mảnh; hạt mảnh và dài.
  • Mùa hoa: tháng 5 – 12.

Phân bố, sinh thái

Họ nắp ấm (Nepenthaceae) ở Việt Nam chỉ có 1 chi Nepenthes L. với 4 loài. Loài nắp ấm hoa đôi trên mới thấy phân bố rải rác từ Quảng Trị trở vào (gồm các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế (Nam Đông), Quảng Nam; Bình Định (Quy Nhơn, Phú Mỹ); Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh (Bình Chánh); Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo); Bạc Liêu; Cà Mau; Tây Ninh (VQG. Lò Gò – Xa Mát). Cây cũng phân bố ở Nam Trung Quốc, Lào, Campuchia, Malaysia, Indonesia và Philippin.

Nắp ấm hoa đôi là cây ưa sáng, cây thường mọc lẫn với các cây bụi nhỏ hoặc cỏ cao, ở nơi đất chua, hơi trũng, có thể ngập nước ít ngày vào mùa mưa.

Bộ phận dùng:

Toàn cây.

Tác dụng dược lý

Cao toàn bộ cây nắp ấm hoa đôi có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng (Viart C. et al., 2004).

Tính vị, công năng

Nắp ấm hoa đôi có vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp.

Công dụng

Nắp ấm hoa đội được dùng chữa tiểu tiện ra cát sỏi, viêm gan vàng da, viêm loét dạ dày tá tràng, huyết áp cao, trẻ em ho gà. Ngày dùng 20 – 40g thuốc khô hay 40 – 80g thuốc tươi, sắc uống [Lê Trần Đức, 1997: 878].

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nap-am-hoa-doi.html/feed 0
Ngải đắng https://tracuuduoclieu.vn/ngai-dang.html https://tracuuduoclieu.vn/ngai-dang.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:23:29 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57052 Mô tả

Mô tả 1

Cây thảo, sống hai năm hoặc nhiều năm, cao 0,40 – 0,60m, có khi đến 1m. Thân mọc đứng, có khía dọc và lông mềm màu trắng.

  • Lá mọc so le, hai mặt phủ lông tơ trắng, mép khía răng; lá ở phía gốc có cuống dài, chẻ lông chim 3 lần, lá ở gần ngọn chẻ ít hơn và có cuống ngắn.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành đầu, các đầu họp lại thành chùy; hoa màu vàng hay trắng.
  • Quả ít gặp.

Phân bố, sinh thái

Cây có nguồn gốc ở vùng ôn đới ẩm thuộc châu Âu và một phần ở châu Á, đồng thời cũng có được trồng ở một số quốc gia Đông Âu và Liên Xô cũ. Ngải đắng được Viện Dược liệu nhập giống từ Hungari vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước tại vườn thuốc ở SaPa. Tuy nhiên hiện nay cây đã bị mất giống.

Ngải đắng là cây ưa sáng, ưa khí hậu ẩm mát của vùng núi cao. Cây sống một năm, nên sau khi có quả già, toàn cây sẽ bị tàn lụi vào mùa đông.

Bộ phận dùng:

Toàn bộ phần trên mặt đất: lá, thân cành, hoa.

Thành phần hóa học

Ngải đắng chứa tinh dầu bao gồm myrcen, α – pinen, thujyl alcol, nerol, thujyl acetat.

Theo Kennedy Alan I, 1993, tinh dầu rễ chứa α – fenchen 53%, β – myrcen 6%, endo – bornyl acetat 2%, β – pinen 1%, trong khi đó tinh dầu rễ chứa neryl isovalerat 47% và nery butyrat 6% [CA 119; 1993: 4973 t].

Theo tài liệu khác, tinh dầu có 24 thành phần trong đó có thuyen và isothuyen (12 – 25%), sabinyl acetat (13 – 20%) và 1,8 – cineol (2 – 13%).

Tác dụng dược lý

Tác dụng kháng nấm, kháng khuẩn

Thử tác dụng kháng nấm của tinh dầu trên 2 loại nấm là Candida albicans và Saccharomyces cerevisiae var. chevalieri. Kết quả cho thấy, tinh dầu ngải đắng có tác dụng ức chế khá mạnh sự phát triển của cả 2 loại nấm.

Tác dụng bảo vệ gan

  • Tác dụng của cao ngải đắng chiết bằng ethanol – nước đã được nghiên cứu trên tổn thương gan do acetaminophen và CCl4. Kết quả cho thấy:
  • Acetaminophen với liều 1g/kg làm chết 100% chuột nhắt trắng, trong khi điều trị bằng cao ngải đắng với liều 500 mg/kg làm giảm tỷ lệ chết 20%.
  • Điều trị từ trước cho chuột cống trắng bằng cao ngải đắng với liều 500 mg/kg, uống ngày 2 lần trong 2 ngày ngăn ngừa được (P < 0,01) sự tăng transaminase (ALT và AST) trong huyết thanh do dùng acetaminophen (640 mg/kg) hoặc CCI, (1,5ml/kg).
  • Sau khi gây tổn thương gan, dùng cao ngải đắng với liều (500 mg/kg), 3 lần liên tiếp, cách nhau 6 giờ, hạn chế được tổn thương gan do acetaminophen (P < 0,05), nhưng độc tính gan do CCI4, không bị ảnh hưởng (P> 0,05).
  • Như vậy, cao ngải đắng có tác dụng bảo vệ gan, một phần là do ức chế MDME và kết quả thí nghiệm đã chứng minh việc sử dụng ngải đắng để chữa tổn thương gan trong y học cổ truyền (Gilani et al., 1995).

Tác dụng chống viêm

Flavonoid của ngải đắng đã được chứng minh là có tác dụng chống viêm. Kết quả cho thấy p7F có tác dụng chống oxy và ức chế hoạt hóa NF – kB và có thể được dùng trong lâm sàng để điều trị các chứng viêm (Lee et al., 2004).

Tác dụng kích thích tiêu hóa

Ngải đắng có tác dụng như một thuốc bổ đắng, làm ăn ngon, kích thích tiêu hóa, có tác dụng kiện vị, bổ dạ dày.

Tính vị công năng

Tính vị công năng 1

Ngải đắng (toàn cây) vị đắng, mùi thơm, tính ấm, có công năng bổ đắng, lợi tiêu hóa, hạ sốt, làm dịu đau, chống ho, trừ giun.

Công dụng

Ngải đắng được dùng làm thuốc kích thích tiêu hóa, làm thuốc bổ đắng chữa đầy hơi, đau dạ dày, đau gan, tăng huyết áp, ho, sốt. Liều dùng 2-10g thường dùng dạng thuốc hãm hoặc rượu thuốc.

Để kích thích tiêu hóa thường dùng liều thấp. Khi bị đau răng, sắc đặc ngải đắng, chấm vào chân răng bị đau.

Ở Tuynidi, quả và lá phơi khô rồi quấn làm thuốc hút, hoặc sắc uống làm thuốc trị sốt và trị cúm.

Cách dùng cây ngải đắng làm thuốc

Dùng cây khô sắc uống: Liều dùng lá, thân ngải đắng khoảng 15g/ngày sắc nước uống trong ngày.

Dùng ngâm rượu: 1kg lá, thân ngải đắng phơi khô (trong bóng râm), ngâm với khoảng 5 lít ~ 6 lít rượu 40 độ. Ngâm trong tầm khoảng 1 tháng trở lên là dùng được. Liều dùng 2 ly ~ 3 ly nhỏ/ngày. Rượu này thường được quen gọi với tên rượu áp xanh do có màu xanh lá cây, vị đắng.

Cây ngải đắng gắn liền với thương hiệu rượu áp xanh, rượu Absinthe

Cây ngải đắng gắn liền với thương hiệu rượu áp xanh, rượu Absinthe 1

Ở nước ta rượu áp xanh nối tiếng huyện Đất Đỏ – Bà Rịa Vũng Tàu. Rượu này được tìm mua như một vị thuốc quý mà độc đáo vì độ lên màu đẹp lôi cuốn khiến ai cũng tò mò muốn uống.

Một điều độc đáo ở rượu Áp Xanh là cách pha chế có thể nhiều người biết  nhưng không ai nắm được bí quyết bốc thang thuốc dùng nấu rượu. Người ta chỉ biết rằng  trong thang thuốc đó có chừng bảy vị thuốc và việc bốc thuốc là nghề “cha truyền con nối” (Trong thang thuốc đó không thể thiếu ngải đắng, các loại đại hầu, riềng, cam thảo).

Rượu áp xanh cũng được ưa chuộng ở một số nước phương tây với tên Absinthe. Tuy nhiên người ta lấy chiết xuất từ cây áp xanh này để dùng pha chế rượu. Đây một loại thức uống gây nghiện được yêu thích vào thế kỷ XIX ở Pháp. Màu sắc xanh ngọc ấn tượng kết hợp hương liệu từ tinh dầu cây ngải đắng (áp xanh). Tuy nhiên rượu này gây kích thích thần kinh vì có hàm lượng thujone cao, dùng với lượng ít nó an toàn nhưng sẽ gây độc nếu dùng quá liều.

Lưu ý

  • Không dùng cho phụ nữ có thai.
  • Có thể gây rối loạn thần kinh như co giật, mất ngủ, hoang tưởng. Hoa gây dị ứng.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/ngai-dang.html/feed 0
Nghệ xanh https://tracuuduoclieu.vn/nghe-xanh.html https://tracuuduoclieu.vn/nghe-xanh.html#comments Mon, 02 Aug 2021 06:22:56 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57059 Mô tả
  • Cây thảo, sống nhiều năm, cao 1,5 – 2m. Thân rễ mập, hình trái xoan, dài 16 cm, dày 3 cm, đầu màu hồng, vỏ ngoài màu xám sáng, mặt trong màu lục lợ.
  • Lá mọc so le, hình mác thuôn, dài 30 – 70 cm, rộng 9 – 13 cm, hai mặt nhẵn, có một vệt màu đỏ nhạt ở gần giữa, bẹ lá dài và nhẵn.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá xuất phát từ thân rễ trên một cán dài thành bông to hình trụ, bao bọc bởi những lá bắc màu lục sẫm, đầu nhuốm đỏ; đài màu trắng hoặc vàng ngà, có 3 răng hình tam giác; tràng có ống hẹp, cánh hoa màu hồng sẫm, cánh lưng có mũi nhọn dài, nhị có trung đới hình mũi hẹp, nhị lép hình elip đính ở gốc chỉ nhị, màu vàng, cánh môi hơi xẻ 3, màu vàng, bầu có lông.
  • Mùa hoa: tháng 4 – 7.

Phân bố, sinh thái

Cây phân bố tự nhiên ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như: Sơn La (Mộc Châu), Điện Biên (Tuần Giáo), Tuyên Quang (Chiêm Hóa, Yên Sơn), Hà Giang (Vị Xuyên và ngoại ô thị xã Hà Giang), Thái Nguyên (Phú Lương, Đại Từ). Cây cũng được trồng rải rác trong nhân dân. Trên thế giới, cây có ở Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Campuchia và Indonesia.

Nghệ xanh lá cây đặc biệt ưa ẩm và chịu bóng. Cây thường mọc nơi đất còn tương đối màu mỡ, giàu chất mùn, bên cạnh các lùm bụi quanh làng, ven đường đi, bờ nương rẫy nhưng gần nguồn nước. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa hè – thu, đến mùa đông toàn bộ phần trên mặt đất bị tàn lụi. Hiện chưa quan sát được quả cũng như cây con mọc từ hạt. Nhân trồng dễ dàng bằng các nhánh củ con. Trồng vào mùa xuân.

Bộ phận dùng

Thân rễ.

Thành phần hóa học

Trong thân rễ nghệ xanh chứa tinh dầu, curcumenon, curcumol, curdion, epicurzerenon aerugidiol, difrucurmenon, guain, sesquiterrpen lacton, isofurranodien, furanodienon, dihydrogermacron, 13 hydroxygerlacron, zedoarol, sedoalacerol A và B redoalrondrol (guinolid) [Phạm Hoàng Hộ, 2006].

Theo Lã Đình Mồi (2002) [Tài nguyên thực vật có tinh dầu ở Việt Nam, tập 2, tr.256], thành phần của tinh dầu nghệ xanh gồm α – pinen (0,07%) β – pinen (1,23%) limonen (0,13%) 1,8 cineol (2,98%), decanon – 2 (0,21%), camphor (1,16%), nanonol – 2 (0,06%), α – terpineol (0,32%), 8 – elemen (0,21%), β-elemen (2,82%), β – caryophyllen (0,76%), menthol (0,04%), isoborneol (0,05%), borneol (0,13%) sesquiterpen hydrocarbon (0,20%), β – cubeben (1,15%), α – zingiberen (2,72%), α – curcumen (0,4%) β – bisabolen (1,42%) sesquiterpen derivat (0,75%) δ – elemen (1,50%) δ – lacton (0,64%) 19,9% sesquiterpen.

Tác dụng dược lý

Tác dụng ức chế yếu tố hoạt hóa tiểu cầu: Cao methanol chiết từ thân rễ cây nghệ xanh có tác dụng ức chế có ý nghĩa với nồng độ tối thiểu ức chế 50% (IC50) từ 1,2 đến 18,4 ug/ml (Jantan et al., 2005).

Tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm: Có tác dụng kháng khuẩn và kháng nấm: Pseudomonas aeruginosa, Bacillus subtilis, Staphylococcus aureus.

Hoạt tính chống oxy hóa in vitro: Hoạt tính chống oxy hóa được đánh giá qua tác dụng dọn gốc tự do DPPH (2,2 – diphenyl – 1 – picryhydrazyl) trong dung dịch ethanol bão hoà dùng acid ascorbic làm chất tham chiếu chống oxy hoá. Kết quả cho thấy, acid ascorbic với nồng độ 50 g/ml, khả năng dọn gốc tự do so với lô đối chứng là 86%, còn curdion và zederon cũng với nồng độ 50 ng/ml không có tác dụng [Tài liệu đã dẫn].

Tính vị, công năng

Nghệ xanh vị đắng, cay, tính ấm, vào kinh can, có công năng phá huyết, hành khí, tiêu tích, thông kinh, chỉ thống.

Cũng từ tương tự như ở Việt Nam, tài liệu Trung Quốc cho rằng thân rễ nghệ xanh, vị đắng cay, tính ôn, có công năng phá huyết, hành khí, tiêu tích tụ, chỉ thống [TDTH, 1996, VV. 1939].

Công dụng

Thân rễ nghệ xanh được dùng trị tích huyết sinh đau bụng, kinh nguyệt bế tắc, ăn không tiền tích tụ lại, gan lách sưng to. Ngày dùng 3 – 10 sắc nước uống hoặc tán bột uống.

Trong thời kỳ đói kém, nhân dân lấy thân rễ, mài hoặc gia thành bột, rửa sạch bột bằng nước, phơi bột cho khô dùng thay cho sắn, ngô.

Ở Indonesia và Thái Lan, nhân dân dùng thân rễ ngải xanh (có thể phối hợp với một số vị thuốc khác) sắc cho phụ nữ sau khi sinh con để chống các bệnh phát sinh sau đẻ, được coi như để lọc máu. Uống trong và đắp ngoài để chữa ngoại ban, lở ngứa. Còn dùng chữa béo phì, thấp khớp và chống giun.

Có thể dùng thân rễ tươi làm thuốc nhuộm xanh [De Padua et al., 1999: 211; Med, herb index, 1995: 271].

Ở Trung Quốc, thân rễ ngải xanh được dùng chữa chứng giả tích tụ (chứng tích tụ hòn cục ở trong bụng), quảng phục trưởng thống (khoang bụng trướng đau), thực tích trướng thống (ăn không tiêu, bụng trướng đau), kinh bế phúc thống
(không thấy kinh sinh đau bụng), khí huyết ngưng trệ [TDTH, 1996, II: 1939].

Chú ý:

  • Phụ nữ có thai không được dùng ngải xanh.
  • Người cơ thể yếu mệt cũng không nên dùng. Nhưng có thể phối hợp với nhân sâm, bạch truật để dùng khi yếu mệt.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nghe-xanh.html/feed 1
Ô liu https://tracuuduoclieu.vn/o-liu.html https://tracuuduoclieu.vn/o-liu.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:21:37 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57122 Mô tả
  • Cây gỗ, cao 10 – 15m, sống lâu năm. Thân phân cảnh nhiều, vỏ sần sùi, màu xám.
  • Lá mọc đối, hình trái xoan hoặc ngọn giáo, dài 1,5 – 5cm, mặt trên bóng láng, màu xám, mặt dưới màu trắng hơi ánh bạc, mép nguyên hơi uốn lại phía dưới.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm, hoa nhỏ, mẫu 4, màu trắng lục.
  • Quả mọng, hình bầu dục, dài 2 – 2,5cm, khi chín màu đen.

Phân bố, sinh thái

Chi Olea L. ở Việt Nam có 8 loài và 1 thứ (var.), trong đó loài ô liu trên là cây nhập nội, đã có trồng ở Phan Rang và Nha Hố tỉnh Ninh Thuận. Trên thế giới, ô liu có nguồn gốc ở vùng Trung Cận Đông. Cây cũng được trồng phổ biến ở vùng này, vùng Bắc Phi và Địa Trung Hải (thuộc Nam Âu). Ở Trung Quốc có trồng ở đảo Hải Nam.

Ô liu là loại cây đặc biệt ưa sáng, hơi chịu hạn và có thể sống được trên nhiều loại đất. Cây thường xanh quanh năm và ra hoa kết quả rất nhiều.

Bộ phận dùng:

Lá, quả.

Thành phần hoá học

Lá chứa nhiều chất vô cơ, sáp manitol 2 – 3%

Các thành phần khác là:

  • Flavonoid: luteolin và glucosid của nó, olivin, rutin, glycosid của apigenin
  • Cholin
  • Các dẫn chất triterpen: 3 – 4% gồm acid oleanolic
  • Các chất secoiridoid, nhiều nhất là oleoropeosid

Quả xanh chứa 2% chất vô cơ, 10-20% carbohydrat, 5-10% protid, 2% oleoropeosid.

Dầu ô liu chứa phần lớn là các glycerid của các acid không no: acid oleic 70 – 80% và acid linoleic 7- 10%, và một lượng nhỏ các acid no: acid palmitic và acid stearic. Dầu ô liu còn chứa các vitamin A và D.

Hạt chiếm 20 – 25% quả ô liu tươi, gồm 85% nội quả bì và 15% nhân hạt. Nhân hạt chứa 35 – 40% dầu béo.

Tác dụng dược lý

Tác dụng trên vi sinh vật:

Acid maslinic phân lập từ lá và quả cây oliu có tác dụng kháng Coccidium gây nhiềm bệnh ở gà. Cao lá oliu có tác dụng kháng khuẩn mạnh trên 3 loại vi khuẩn: Campylobacter jejuni, Helicobacter pylori và Staphylococus aureus. Cao lá oliu và ole là nguồn thuốc kháng vi rút trong tự nhiên được sử dụng lâu đời và không có hại đến sức khỏe.

Tác dụng trên tim mạch, huyết áp:

Chiết phẩm từ lá oliu có tác dụng chống tăng huyết áp trên chuột cống trắng thí nghiệm. Chất methyl maslinat phân lập từ lá oliu có tác dụng gây hạ huyết áp, giảm nhịp tim.

Tác dụng chống viêm, giảm đau:

Lá và quả oliu được dùng điều trị một số bệnh như thấp khớp, trĩ, và là thuốc gây giãn mạch trong các rối loạn về mạch máu trong y học dân gian đối với người cao tuổi.

Tác dụng trên chuyển hóa:

Đã nghiên cứu đánh giá việc bổ sung oleuropein lá hoạt chất của lá oliu có tác dụng chống oxy hóa để làm giảm stress và sự tăn đường huyết ở thỏ đái tháo đường do alloxan.

Tính vị, công năng

  • Vỏ cây vị đắng chát, có công năng bổ đắng được dùng thay thế canh-kina.
  • Dầu thịt quả không mùi, vị nhạt, có công năng làm mềm làm dịu và nhuận tràng.

Công dụng

Dầu ô liu dược dụng được sử dụng do tính chất lợi mật, hoi nhuận tràng. Dùng ngoài để làm thuốc dịu, làm mềm, giảm đau, để trị một số bệnh ngoài da. Thường làm tá dược để chế các dạng thuốc xoa, thuốc sáp, thuốc mỡ, thuốc thụt (hậu môn).

Lá cây ô liu được dùng làm mạnh tim, hạ huyết áp nhẹ, có tác dụng chống viêm, chữa thấp khớp, bảo vệ gan, chống đái tháo đường. Liều dùng ngày 5 – 10g lá sắc uống. Có thể chế ra cao dạng chiết với nước hoặc ethanol, mỗi lần uống 0,25 – 0,5g.

  • Ở Trung Quốc, dầu ô liu được dùng trị các vết bỏng, có thể làm cao bởi ngoài da. Lá dược đun làm thuốc hãm hoặc chiết bằng ethanol để làm thuốc hạ huyết áp.
  • Ở vùng Địa Trung Hải, người ta dùng là ô liu hoặc cao chiết từ lá ô liu để sát trùng, hạ sốt, hạ huyết áp, nhuận tràng, để cải thiện chức năng tim mạch [Thomas et al., 2000: 32).
  • Ở Ấn Độ, vỏ cây có vị đắng được dùng làm thuốc bổ đẳng thay thế cho canh kina để kích thích ăn uống. Dầu ô liu được ép từ quả ô liu chưa chín. Dầu ép lần 1 cho loại dầu tinh sạch gọi là “virgin oil”, dầu ép lần 2 vẫn dùng làm dầu ăn. Dầu tốt có màu vàng nhạt, trong suốt, vị và mùi nhẹ của quả, được dùng để làm dịu, làm mềm và nhuận tràng, thường làm tá dược chế nhiều dạng, thuốc như thuốc đắp, thuốc xoa, thuốc mở, thuốc thụt. Cao chiết bằng nước từ lá ô liu được dùng chữa cao huyết áp. Chất giống gồm từ chỗ cây bị tổn thương được dùng trị thương [Chopra et al., 1998: 75], [Kirtikar et al., 1998, tập 2: 1534] [Nadkarni, 1999: 870].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/o-liu.html/feed 0
Rau ngổ trâu https://tracuuduoclieu.vn/rau-ngo-trau.html https://tracuuduoclieu.vn/rau-ngo-trau.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:18:31 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57144 Mô tả
  • Cây cỏ, dài hàng mét, phân nhánh chủ yếu ở ngọn, bén rễ ở những mấu. Thân hình trụ, có rãnh.
  • Lá mọc đối, hình mác – thuôn, dài 5 – 6 cm, rộng 0,6 – 1 cm, gốc loe rộng và ôm thân, đầu thuôn nhọn, mép khía răng.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành đầu sau ở lá, không cuống; 4 lá bắc hình trái xoan tù, màu lục; hoa cái và hoa lưỡng tính đều sinh sản, không có mào lông; tràng hoa hình lưỡi chia 3 thùy, rất ngắn; 5 nhị, bao phấn dày, có tại nhỏ ngăn và nhọn; bầu hình trụ cong, tràng hoa hình ống thùy hơi nhọn.
  • Quả bế.

Phân bố, sinh thái

Chi Enhydra Lour., chỉ có một loài rau ngổ trâu ở Việt Nam. Rau ngổ trâu là loại cây nhiệt đới, phân bố cả những vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới của Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ. Ở Việt Nam, câyphân bố ở hầu hết các tinh thuộc vùng núi thấp, trung du và đồng bằng.

Rau ngổ trâu thuộc nhóm cây thảo, sống nhiều năm, thường sống ở môi trường nước nông, gốc ở dưới bùn còn toàn bộ phần thân, cành vươn dài nổi trên mặt nước, do thân xốp. Nơi mọc thường thấy là ở vùng đồng chiêm trũng, kênh mương, ven ao hồ hoặc suối ở cửa rừng.

Bộ phận dùng:

Toàn cây.

Thành phần hoá học

Theo Krishnaswamy N. R. et al., 1995, lá rau ngổ trâu chứa 3 sesquilacton và 2 chlorin mới có melampolide (Phytochemistry 1995,38 (2) 433 – 51. (CA 122: 209780m).

  • Rau ngổ trâu có hàm lượng protein cao đồng thời là nguồn cung cấp β – caroten (3,7 đến 4,2 mg/100g tính theo trọng lượng tươi (CA 110:202170s).
  • Rau ngổ trâu (tính theo %) protein 1,5; lipid 0,3; cellulose 2,0; dẫn chất không protein 3,8; chất khoáng toàn phần 0,8%; caroten, vitamin B; vitamin C, tinh dầu; stigmasterol (Võ Văn Chi, 1997).
  • Toàn cây chứa tinh dầu 0,21%, stigmasterol 0,05%, và một ít chất đắng (The wealth of India III, 1952).

Tác dụng dược lý

Tác dụng giảm đau:

Cao khô rau ngổ trầu chiết bằng methanol cho chuột nhắt trắng uống với liều 250 mg/kg và 500 mg/kg. Thử tác dụng giảm đau trên hai mô hình là mô hình gây đau bằng cách tiêm vào phúc mạc của chuột dung dịch acid acetic và mô hình kẹp đuôi chuột với một áp lực vừa đủ để chuột không uống thuốc bị đau. Kết quả cho thấy cao khô rau ngổ trâu có tác dụng giảm đau trên cả hai mô hình [Rahman et al., 2002, Fitoterapia, vol.73, No. 7 – 8:707 – 709].

Tính vị, công năng

Rau ngổ trâu có vị hơi đắng, tính mát, mùi thơm, không độc, có tác dụng thông hoạt, trung tiện, lợi tiểu tiện, mát huyết, cầm máu.

Công dụng

Toàn cây rau ngổ trâu được dùng chữa cảm sốt, bí trung tiện, bí đái, đái ra máu, vết thương chảy máu, băng huyết, thổ huyết, viêm tấy, ăn không tiêu, đầy bụng. Hạt rau ngổ trâu trị các bệnh về gan mật và thần kinh.

Lá tươi giã nát đắp vào da chỗ bị phát ban, mụn rộp, sưng phồng. Liều dùng mỗi ngày 12 – 20g cây khô sắc uống, nếu tươi dùng 30 – 40g. Dùng ngoài không kể liều lượng.

Trong nhân dân, cành lá non rau ngổ trâu có mùi thơm để nấu canh chua, cũng có thể ăn sống, làm gia vị.

Để chữa bí trung tiện, bị đái, đái ra máu, băng huyết do nóng, dùng rau ngổ trâu tươi 30g, rửa sạch, giã nát, cho thêm thước chín để nguội, khuấy đều, gạn lấy nước, bỏ bã, pha thêm đường đủ ngọt rồi uống.

  • Ở Ấn Độ, lá ngổ trâu được dùng để nhuận tràng, chữa khó tiêu, bệnh đường dẫn mật, bệnh gan, bệnh da và bệnh thần kinh. Dịch ép lá còn dùng để làm dịu trong bệnh lậu, thường phối hợp với sữa bò hoặc sữa dê.
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rau-ngo-trau.html/feed 0