Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Fri, 27 Jun 2025 09:38:07 +0700 vi hourly 1 Chanh trường https://tracuuduoclieu.vn/chanh-truong.html https://tracuuduoclieu.vn/chanh-truong.html#respond Sat, 19 Mar 2022 00:42:10 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/chanh-truong/ Mô tả cây
  • Cây nhỏ, cao 0,5-1m. Thân hơi dẹt, đôi khi hóa gỗ ở gốc, nhẵn bóng.
  • Lá mọc so le, hình mác hoặc hình quả trám, gốc có phiến kéo dài đến tận cuống, đầu thuôn nhọn, mép nguyên, uốn lượn, hai mặt nhẵn; cuống lá dài 2-3cm.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm; hoa nhỏ màu trắng; đài hình chuông hoặc hình đấu, có 5 răng xẻ đến phần giữa ống, tràng 5 cánh nhọn, nhẵn; nhị 5, mở bằng đường nứt ngang.
  • Quả mọng, hình cầu, nhẵn bóng, khi chín màu vàng nhạt, hạt nhiều, có góc.
  • Mùa ra hoa: tháng 7-9. Mùa quả: tháng 10-2.

Phân bố sinh thái

Chanh trường là cây thân thảo, thường mọc trên đất ẩm ở bờ rào vườn, trên các bãi hoang quanh làng, ven đường đi hoặc nương rẫy.

  • Chanh trường có nguồn gốc ở châu Mỹ, phân bố rộng rãi ở 1 số vùng cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Lào và Việt Nam…
  • Ở Việt Nam, chanh trường thường gặp ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang,…

Bộ phận dùng

  • Lá và rễ thu hái quanh năm, dùng tươi hay sấy khô

Thành phần hóa học

  • Lá chanh trường chứa 1,29% alcaloid.
  • Rễ chứa các glucoalcaloid, etiolin. Ngoài ra còn có solaspiralidin.

Tác dụng dược lý

Theo tài liệu nước ngoài (Ấn Độ), rễ cây chanh trường có tác dụng gây mê, gây ngủ và lợi tiểu.

Tính vị, công năng

Chanh trường có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, kiện vị

Công dụng

Nhân dân thường dùng lá chanh trường chữa đau bụng, chướng bụng, phù thũng. Ngày dùng 6-12g lá khô dưới dạng thuốc sắc. Rễ được dùng chữa kinh nguyệt không đều với liều 10-12g/ngày, sắc nước uống.

Chanh trường ăn được, dùng làm gia vị.

 

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/chanh-truong.html/feed 0
Muỗm https://tracuuduoclieu.vn/muom.html https://tracuuduoclieu.vn/muom.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:24:31 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57040 Mô tả
  • Cây to, cao 10 – 15m, có khi hơn.
  • Lá mọc so le, hình mác – thuôn, dài 15 – 30 cm, rộng 5 – 9 cm, gốc thuôn, đầu có mũi nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc ngọn cành thành chùy phân nhánh đôi, màu đỏ đen nhạt; hoa nhiều màu lục vàng; đài có răng nhẵn, hình bầu dục nhọn; tràng có cánh hình mũi mác hẹp, dài gấp 3 lần đài; nhị 4 – 5, một cái sinh sản dài bằng cánh hoa và 3 – 4 cái khác ngắn hơn, bao phấn không toàn vẹn.
  • Quả hạch, hình bầu dục tròn, khi chín màu vàng lục, trong chứa thịt màu vàng, vị ngọt chua.
  • Hai thời vụ hoa chính: tháng 12-3 và 5-7. Quả tháng 3-6 và 10-11.

Phân bố, sinh thái

Muỗm hay còn gọi là “xoài hôi” vốn có nguồn gốc từ quần thể mọc tự nhiên trong rừng cây họ Dầu (Dipterocarpacene) ở bán đảo Malaisia, Thái Lan và các đảo lớn Sumatra và Borneo (Indonesia). Cây đã được đưa vào trồng từ lâu đời tại những nơi được coi là bản địa ở trên, cũng như nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á và Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Cây muỗm trồng ở Việt Nam, trên thực tế không biết một cách chính xác về xuất xứ và thời gian nào được đưa vào trồng. Vào khoảng trước năm 1990, muỗm có trồng ở nhiều tỉnh thuộc đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Trung Bộ. Cây trồng thường phân biệt thành 2 giống chủ yếu là quả hình ô van và ô van tròn. Muỗm trồng ở miền Bắc có ưu điểm là năm nào cũng có quả (hoặc nhiều hoặc ít), trong khi đó các loại xoài, nếu hoa ra sớm vào đúng thời kì có đợt gió mùa Đông Bắc, sẽ không đậu được quả nào. Mặc dù vậy, muỗm trồng ở miền Bắc và miền Trung nay đã bị thay thế bởi các giống xoài mới có chất lượng và năng suất cao. Đây là giống cây trồng lâu năm, có nguy cơ bị mất giống nên cần nhân giống để bảo tồn nguồn gen.

Muỗm là cây gỗ nhỏ hay gỗ nhỡ trung bình, Nghĩa là khi cây nhỏ ưa ẩm, chịu bóng, khi lớn và ưa sáng và có thể hơi chịu hạn. Cây mọc tự nhiên ở rừng, có thể lên tới độ cao 1.000m.

Bộ phận dùng

Vỏ – Cortex Mangiferae Foetida.

Thành phần hóa học

Quả có 65% phần ăn được. 100g phần ăn được chứa nước 72,5g, protein 1,4g, carbohydrat 25,4g, calci 21mg, phospho 15mg, thiamin 0,03mg, chất tương ứng với B – carotene 0,218mg và vitamin C 56mg [De Padua et al., Prosea 12 (1), 1992, 210).

Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia 2000, quả muỗm chín chứa 82,9% nước, 0,6% protein, 0,4% lipid, 15,3% carbohydrat, 0,4% cellulose, 4%mg calci, 4%mg phospho, 0,2%mg sắt, 1905%mcg B – caroten, 0,06%mg vitamin B, 0,06mg vitamin Ba, 0,9mg vitamin PP, 60%mg vitamin C [Viện Dinh dưỡng. Bảng thành phần dinh dưỡng thực phẩm VN – 2000, 55].

Tính vị, công năng

Vỏ cây muỗm vị chát, se. Có công năng làm săn da.

Công dụng

Quả ăn không ngon, có mùi vị nồng. Vỏ cây muỗm được dùng để chữa đau răng và để cầm ỉa chảy.

Để chữa đau răng, mỗi ngày dùng 10 – 20g vỏ, sắc đặc hoặc ngâm rượu, mỗi lần ngậm 10 – 20ml, ngày 4 – 6 lần, mỗi lần ngậm 1 phút rồi nhổ ra.

Để chữa ỉa chảy, cũng dùng 10 – 20g vỏ thân, sắc đặc rồi uống.

Ở Indonesia, nhân hạt thái lát, sao vàng, sắc uống để chữa ngứa, nhưng cần tránh nhựa của thân cây vì có thể gây viêm da [Perry et al., 1980: 15], quả ăn được [Med. herb. index, 1995: 363].

Nguồn: 3033 cây thuốc Đông y Tuệ Tĩnh.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/muom.html/feed 0
Rau trai đắng https://tracuuduoclieu.vn/rau-trai-dang.html https://tracuuduoclieu.vn/rau-trai-dang.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:18:04 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57148 Mô tả
  • Cây thảo, cao 25 – 50 cm. Thân phân nhánh nhiều, có lông, bén rễ ở những đốt sát mặt đất thành chùm.
  • Lá mọc so le, hình mác thuôn, dài 2 – 10 cm, rộng 1 – 2 cm, gốc tròn có bẹ hình ống hẹp, đầu nhọn, gân song song, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm không cuống hoặc cuống rất ngắn, mang 2 – 4 hoa màu xanh lơ đựng trong một cái mo; đài 3 răng rời nhau; tràng 3 cánh; nhị 3 – 4, có nhị kép; bầu 3 ô.
  • Quả nang, 3 mảnh vỏ, bao bọc bởi bao hoa, dài 5 – 6 mm, rộng 4 – 6 mm; hạt hình khối nhiều mặt.
  • Mùa hoa quả: tháng 6 – 8.

Phân bố, sinh thái

Chi Commelina L. ở Việt Nam có 8 loài, trong đó hiện đã biết tới 6 loài có tên gọi chung là “thài hài” hay “rau trai” và đều được dùng làm thuốc. Tuy nhiên, loài thài lài trên đây khác với 2 loài thài lài trắng (C.diffusa Burm. f.) và thài lài tía (C.zebrina Hort. ex Loudon) ở chỗ có kích thước nhỏ hơn, cây thường mọc bò nơi đất ẩm hoặc ngập nước tạm thời và chỉ có phần ngọn vươn thăng lên. Rau trai đắng có vùng phân bố rộng rãi ở hầu hết các nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á. Ở Việt Nam, cây cũng có mặt tại các tỉnh từ vùng núi thấp xuống đến trung du và cả ở đồng bằng.

Cây đặc biệt ưa ẩm và ưa sáng, sinh trưởng phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm, đến mùa đông lạnh (ở các tỉnh phía Bắc) có hiện tượng bán tàn lụi.

Bộ phận dùng

Toàn cây.

Thành phần hoá học

  • Toàn cây chứa delphin, commelinin, flavocommelin, owobanin (Võ Văn Chi, 1997).
  • Hoa chứa sắc tố delphinidin diglucosid (thành phần chính), acid p. coumaric và awabanol (Sastri et al., The wealth of India II, 1950).
  • Hạt chứa dầu béo (Võ Văn Chi, 1997).

Tác dụng dược lý

Tác dụng chống tăng glucose huyết:

Cao chiết nước toàn cây rau trai đắng có tác dụng làm giảm sự tăng glucose huyết gây nên do dùng liều cao maltose hoặc tinh bột ở chuột nhắt trắng có glucose huyết bình thường hoặc ở chuột bị đái tháo đường do streptozocin. Tác dụng này còn mạnh hơn tác dụng của acarbose là một thuốc chữa đái tháo đường do ức chế enzym alphaglucosidase vẫn được dùng trong Tây y (Youn et al., 2004). Ngoài ra dùng dài ngày cao rau trai đắng có thể làm cho sự tăng glucose huyết chuột nhắt trắng bị đái tháo đường do streptozocin trở về bình thường (Youn et al., 2004).

Tác dụng làm giảm glucose huyết của rau trai đắng đã được nghiên cứu ở chuột cống trắng dòng Sprague Dawley bị tăng glucose huyết do streptozocin bằng cách cho chuột ăn loại thức ăn có trộn 10% phần trên mặt đất phơi khô, tán thành bột của rau trai đắng. Đã định lượng cả glucose huyết và cholesterol trong huyết thanh, đồng thời cả glucose niệu. Kết quả thấy glucose huyết giảm, glucose niệu âm tính ở tuần thứ tư, còn cholesterol không thay đổi [Prosea II, 2001: 182].

Tác dụng trên tế bào ung thư: Cao chiết bằng benzen từ toàn cây rau trai đắng có tác dụng độc trên các tế bào ung thư bạch cầu dòng Leuk HL60 và Leuk L1210 [Prosea, 2001: 182]

Tác dụng kháng khuẩn: Acid parahydroxycinnamic là một thành phần của chất commelinin được phân lập từ rau trai đắng có tác dụng kháng khuẩn.

Các tác dụng khác: Rau trai đăng đã được nghiên cứu, thấy có tác dụng hạ sốt, lợi tiểu và chống phù (Kee, 1999: 393).

Tính vị, công năng

Toàn cây rau trai đắng vị ngọt, nhạt, hơi đang tinh hàn, có công năng thanh nhiệt, giải độc, lợi thuỷ, tiêu thũng.

Công dụng

Rau trai đắng được dùng chữa cảm cúm, sốt, viêm nhiễm đường hô hấp trên, sưng amidan, viêm họng, nhiễm khuẩn đường tiết niệu sinh dục, kiết lỵ, ỉa chảy. Còn dùng để giải khát, chữa đái tháo đường, lợi tiểu, phù thũng. Liều dùng 20 – 30g rau trai đắng khô hoặc 40 – 50g tươi, sắc lấy nước uống. Có thể dùng 90 – 120g tươi, rửa sạch, giã nát, chắt lấy nước uống, ngày 2 lần.

Dùng ngoài trị viêm da, da có mủ, ngứa, mụn nhọt, đầu gối khớp xương sưng đau. Lấy cây tươi, giã nát, đắp khi bị rắn rết cắn, bọ cạp đốt, lấy cả cây (bỏ rễ) tươi 15 – 20g rửa sạch, nhai, nuốt nước, bã đắp lên vết cắn, ngày 2 lần.

Ở Trung Quốc, nhân dân dùng rau trai đắng (tên Trung Quốc của vị thuốc là áp chích thảo) để chữa cảm cúm, cảm lạnh, giải độc, chữa nhiễm khuẩn tiết niệu, lỵ, viêm ruột cấp. Còn được dùng để lợi tiểu, chữa báng, phù. Liều dùng hàng ngày 10 – 15g, có thể dùng đến 60g, sắc nước uống, dùng luôn 3 – 5 ngày. Để chữa viêm amidan, viêm họng, dùng rau trai đắng sắc lấy nước, xúc miệng và nuốt dần dần [Kee, 1999: 393], [Foster et al.,200):190].

Bài thuốc có rau trai đắng

1. Chữa viêm cầu thận cấp, phù thũng, đái ít

Rau trai đắng, cỏ xước, mã đề, mỗi vị 30g. Sắc nước uống, ngày một thang.

2. Chữa phù do suy tim, phong thấp, viêm khớp (bài thuốc của Diệp Quyết Tuyền)

Rau trai đắng 15g (dùng tươi 30g tốt hơn), xích tiểu đậu (đậu đỏ Phaseolus kangularis) 50g hạt khô. Nấu kỹ lên rồi ăn, uống cả nước, ngày một lần, dùng luôn nhiều ngày.

3. Chữa viêm đường hô hấp trên

Rau trai đắng, bồ công anh, dâu tằm, mỗi vị 30g, sắc nước uống.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rau-trai-dang.html/feed 0
Riềng rừng https://tracuuduoclieu.vn/rieng-rung.html https://tracuuduoclieu.vn/rieng-rung.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:16:17 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57154 Mô tả
  • Cây thảo, cao 60 – 80 cm, có khi đến 2m. Thân rễ hình trụ, bò ngang, màu hồng nhạt.
  • Lá mọc so le thành hai dãy, hình dải – mũi mác, dài 17 cm, rộng 3 cm, gốc thuôn thành be to có khía, lưỡi bé nguyên, tròn hoặc hơi nhọn, dài 4 – 6 mm, hai mặt nhắn, mặt trên bóng, mặt dưới nhạt.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùy, dài khoảng 10 cm, phân thành 15 – 25 nhánh có cuống ngắn và lông mềm; lá bắc rất nhỏ, hoa màu trắng hoặc đỏ da cam, cao 1 cm; đài ngắn hình chuông, có răng không rõ; tràng có ống ngắn, cánh hoa hình trái xoan, khum, nhẵn; nhị có chỉ nhị mảnh, bao phấn nhẫn, nhị lép hình giùi, cánh mỗi cuộn lại thành hình cầu chia 3 thuỷ; bầu nhẵn.
  • Quả mọng, hình cầu, đường kính 8 mm, màu đỏ nâu khi khô, bao bọc trong bao hoa tồn tại, hạt 3 – 5, có 3 cạnh màu nâu vàng.
  • Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 9 – 12.

Phân bố, sinh thái

Chi Alpinia Roxb., trên thế giới có khoảng 230 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và nhiệt đới bắc bán cầu; chỉ có một số loài ở Australia và các đảo ở Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, chi này đã biết 27 loài, trong đó có một số loài mới công bố đối với khoa học và cho Việt Nam (Nguyễn Quốc Bình, 2005 trong: Danh lục các loài thực vật Việt Nam, T. III). Loài riềng rừng trên mới thấy ở các tỉnh phía Nam, như An Giang, Đồng Nai và một vài nơi khác cùng ở Nam Bộ. Trên thế giới, cây này phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Philippin.

Riềng rừng là cây nhiệt đới tương đối điển hình. Cây ưa ẩm và chịu bóng, nhất là khi còn nhỏ, thường mọc lẫn trong các lùm bụi hoặc các loài có cao dọc theo bờ sông suối, từ trong rừng ra đến cửa rừng.

Bộ phận dùng:

Thân rễ, thu quanh năm, rửa sạch, thái lát, phơi hoặc sấy khô.

Thành phần hoá học

Chưa có tài liệu nghiên cứu về thành phần hoá học loài riềng rừng. Nhưng theo Phạm Hoàng Hộ (2006) loài A. oxyphylla Mig. có mọc ở nước ta chứa một chất là 1-(4′ – hydroxyl – 3 methoxyphenyl) – 7 phenyl – 3 – heptanon cay gấp 125 lần so với zingiberon trong loài riềng thường. Ngoài ra còn có chứa yakuchinon – 13 có tác dụng trợ tim.

Trịnh Đình Chinh et al., (VAST – procedings, 2008, tr.240) đã phân lập được từ loài riềng lưỡi ngắn mọc ở Quảng Trị (A. breviligulata Gapnep.) tinh dầu mà thành phần chính là E – E – farnesol (65%) (trong hạt). Còn tinh dầu trong củ lại chủ yếu là β – penen, borneol, thân và lá lại chứa cả α và β – pinen. Khi chiết thân rễ với methanol và n – hexan. Dịch chiết n – hexan chứa α – humulen (1,95%), acid hexadecanoid (18,21%) và β – sitosterol.

Tác dụng dược lý

Tác dụng giảm đau và chống viêm:

Cao riềng rừng có tác dụng giảm đau và chống viêm đã chứng minh cho kinh nghiệm của nhân dân vẫn dùng để chữa thấp khớp, đau nhức (Sulaiman et al., 2009).

Tính vị, công năng

Thân rễ (và cả lá) riềng rừng vị cay, tính nóng, mùi thơm; có công năng kiện tỳ vị, giúp tiêu hoá và giảm đau; còn gây phấn khích và trị ho.

Công dụng

Thân rễ riềng rừng cũng được dùng như các loại riềng khác, có tác dụng kích thích tiêu hoá, làm ăn ngon cơm, chữa đầy hơi, đau bụng, đau dạ dày, đi lỏng, ngày 2 – 5g rễ khô tán nhỏ rồi hãm hoặc sắc uống. Có thể tán thành bột mịn uống với nước ngày 1- 2g. Còn dùng làm gia vị, làm men rượu.

  • Ở Malaysia, lá tươi dùng riêng hoặc phối hợp với thân rễ, rửa sạch, giã nát, hơ nóng, làm thành miếng đắp vào nơi máu tụ, chống thấp khớp, đau trong xương. Lá giã nát làm thành bánh đắp vào gan bàn chân sau khi đẻ [Van Valkenburg et al., 2001, vol.2: 571].
  • Ở Indonesia, thân rễ riềng rừng được dùng để kích thích, làm ra mồ hôi, để chữa viêm phế quản, vàng da, nhức đầu, chóng mặt, phối hợp với một số vị thuốc khác sắc uống để bổ và kích thích ăn uống cho người mới đẻ. Cũng để làm gia vị, thức ăn [Medicinal her in Indonesia, 1995: 267].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rieng-rung.html/feed 0
Rút dại https://tracuuduoclieu.vn/rut-dai.html https://tracuuduoclieu.vn/rut-dai.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:15:29 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57160 Mô tả
  • Cây thảo, sống hằng năm, thân hoá gỗ, cao 0,3 – 1,5m, có khi hơn, phân cành nhiều. Rễ có nhiều nốt sần. Thân cành hình trụ, màu lục hoặc tía, có nhiều tuyến dính hoặc gai nhỏ.
  • Lá kép lông chim chẵn, mọc so le, gồm rất nhiều lá chét, hình thuôn hẹp, xếp rất sít nhau; lá kèm nhỏ.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm, 2 – 4 hoa, màu vàng.
  • Quả thẳng, dẹt, thắt lại ở những đốt, khi chín các đốt rời nhau và rụng; hạt hình thận, màu nâu.
  • Mùa hoa: tháng 7 – 8; mùa quả: tháng 9 – 10.

Phân bố, sinh thái

Chi Aeschynomene ở Việt Nam có 5 loài, loài rút dại trên phần bố rải rác khắp các tỉnh thuộc vùng đồng bằng, trung du và ở cả vùng núi thấp. Tuy nhiên cây thường gặp nhiều ở các tỉnh từ miền Trung trở vào. Trên thế giới, loài này phân bố ở Pakistan, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia.

Cây ưa sáng, thường mọc trên đất ngập nước nông, như gần bờ các ao hồ, đầm phá, kênh mương và ruộng trũng…

Bộ phận dùng:

Toàn cây. Tủy cây.

Thành phần hoá học

  • Cây rút dại chứa vicenin – 2, reynoutrin, rutin, myricetin và robinin [Rain I. Rastogi et al., vol. 2, 1999, 18]. Theo Ueda Minoru et al., 1995, cây rút dại chứa trigonnellin là chất có tác động đến khép lá ban đêm (CA 123, 1995: 107808 e).
  • Quả chứa saponin, alcaloid, tanin [Trường Đại học Dược Trung Quốc, tập I, 1993, 2211].

Tác dụng dược lý

Độc tính cấp: Cao khô toàn cây rút dại tiêm phúc mạc cho chuột nhắt trắng có liều chết trung bình LD50 = 45 mg/kg. Như vậy, rút dại là cây có độc tính khá cao.

Tác dụng diệt tinh trùng: Như vậy là cao rút dại có tác dụng diệt tinh trùng ở chuột cống trắng [Dhawan, et al., 1977: 208].

Tác dụng trên hoạt động vận động tự nhiên: Kết quả cho thấy cao rút dại (được chế tạo như ở mục thử độc tính cấp) làm giảm hoạt động vận động tự nhiên của chuột (Dhawan et al., 1977).

Tính vị, công năng

  • Toàn cây rút dại vị ngọt, nhạt, tính hàn, có công năng thanh nhiệt, giải độc, bình can, minh mục, lợi niệu.
  • Tuỷ cây vị nhạt, hơi đắng, tính bình; có công năng thanh nhiệt, lợi thấp, thông tiểu, lợi sữa.
  • Rễ cây vị ngọt, tính hàn, có công năng thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu tích, giải độc.
  • Hạt có độc, gây tổn thương não, rối loạn thần kinh.

Công dụng

Cây rút dại được dùng chữa viêm nhiễm niệu đạo, tiểu tiện khó, đau trướng bụng, ỉa chảy, phù thũng, người già mắt mờ, mắt đỏ, quáng gà, viêm khí quản, viêm túi mật, hoàng đản, cam tích, mày đay, mụn nhọt, ngoại thương xuất huyết.

Thường được dùng thay cho thông thảo hoặc mộc thông để lợi tiểu, thanh nhiệt, giải độc. Toàn cây hoặc rễ, ngày dùng 15 – 30g (dùng tươi 30 – 60 g); tuỷ cây 3 – 6g được dùng ưu tiên để lợi tiểu, lợi sữa, làm sáng mắt.

Thân và lá rút dại thường được ủ để làm phân xanh.

Gỗ nhẹ và chịu ẩm nên được dùng làm nguyên liệu sản xuất mũ, làm nút chai.

Chú ý:

Hạt rút dại có độc, khi cây có quả, tuyệt đối không cho gia súc ăn.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/rut-dai.html/feed 0
Sẻn hôi https://tracuuduoclieu.vn/sen-hoi.html https://tracuuduoclieu.vn/sen-hoi.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:14:49 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57164 Mô tả
  • Cây to, có thể cao đến 30m, cành lúc đầu có lông sau nhẵn, gai nhỏ hình chóp, ngắn, loe ra ở gốc.
  • Lá kép mọc so le, thường tụ tập thành tủm ở đầu cành, lá chét 6 – 8 đội mọc đối, hình trái xoan – mũi mác, dài 9 cm, rộng 2,5 cm, gốc lệch, đầu nhọn, mép nguyên, gân nổi rõ ở mặt dưới lá.
  • Cụm hoa mọc ở đầu cành thành hình ngủ kép, ngắn hơn lá, có lông; đài có 4 răng, nhẵn, hình tam giác, mép có răng tràng 4 cánh nhẵn, hình bầu dục; hoa đực có 4 nhị, chi nhị dài bằng hay phấn, bầu hình thành bởi một khối hình trứng dài hoa cái không có nhị, bầu 1 – 3 noãn hình trứng.
  • Quả nang, to bằng hạt đậu, có mùi thơm, hạn màu đen bóng.

Phân bố, sinh thái

Chi Zanthoxylum L. ở Việt Nam có 13 loài, phân bố ở khắp các vùng núi và trung du. Loài sẻn hôi kể trên có vùng phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, bao gồm: Đắc Lắc (Krông Pắk), Ninh Thuận (Phan Rang, Cà Ná, Ninh Hải: Núi Chúa), Đồng Nai (Trảng Bom, Biên Hoà)… Trên thế giới, loài này có ở Ấn Độ, Xri Lanca, Mianma và Lào.

Sẻn hôi là loại cây gỗ trung sinh, khi lớn ưa sáng và có thể chịu hạn. Cây thường mọc rải rác ở rừng thí sinh hoặc rừng thưa rụng lá hoặc nửa rụng lá. Cây ra hoa quả hàng năm, tái sinh tự nhiên bằng hạt; khi cây còn nhỏ nếu bị chặt có thể sẽ tái sinh cây chồi.

Bộ phận dùng:

Vỏ rễ, vỏ quả.

Thành phần hoá học

Hạt chứa tinh dầu chứa sabinen, limonen, α và β – pinen, p. cymen, terpien – 4 – ol, α – terpineol.

Tác dụng dược lý

Tác dụng diệt ấu trùng muỗi: Tinh dầu sẻn hôi có tác dụng mạnh nhất trên ấu trùng muỗi A. aegypti

Tác dụng kích thích cơ trơn: Tinh dầu quả sẻn hôi có tác dụng kích thích co bóp nhu động của dạ dày ruột chuột nhắt trắng.

Một số tác dụng dược lý khác: Tinh dầu quả sẻn hôi có tác dụng chống viêm (Abraham và Agshikar, 1972). Cao khô chiết bằng methanol vỏ thân cây sẻn hôi với liều 250 và 500 mg/kg có tác dụng giảm đau, làm giảm các cơn đau quặn bụng trong mô hình gây đau bằng cách tiêm dung dịch acid acetic vào phúc mạc chuột nhắt trắng. Cao vỏ thân cây sen hôi còn có tác dụng làm giảm số lần đi ta chảy trong mô hình gây ra chảy bằng dầu thầu dầu ở chuột nhắt trắng (Raham et al., 2002). Các sao chiết bằng ete dầu, chloroform hoặc methanol từ lá và vỏ thân cây sản hội có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm và tác dụng độc tế bào (Islam và Sayeed et al., 2001).

Tính vị, công năng

  • Quả sẻn hôi vị đắng cay, mùi thơm, tính ấm nóng, vào 3 kinh phế, vị, thận; có công năng làm ấm, trừ lạnh, làm săn sóc, kích thích, lợi tiêu hóa.
  • Vỏ rễ cây sẻn hôi có màu đỏ nâu, vị đắng, mùi thơm dễ chịu, tính ấm, có công năng kích thích, trị giun và điều kinh, lọc máu.
  • Vỏ thân sẻn hôi mùi thơm, có công năng hạ sốt và bổ.
  • Hạt sẻn hôi vỏ màu đen, nhẵn bóng, vị đắng, tính lạnh, có công năng, lợi niệu, tiêu thũng, chữa phù thũng.

Công dụng

Quả sẻn hôi (cả hạt) làm ấm bụng (ôn trung), trừ lạnh, đau bụng lạnh, trị đầy hơi, thấp khớp. Còn làm gia vị thay hạt tiêu, thường được bảo quản trong giấm. Liều dùng, ngày 3-6g sắc uống, có thể tán thành bột, hãm uống.

Vỏ rễ để điều kinh, trực giun. Vỏ thân được dùng trị ỉa chảy, sốt rét, thấp khớp, tiêu hoá kém. Liều dùng vỏ thân, vỏ rễ ngày 10 – 15g, sắc uống.

Lá được dùng thay men để chế một loại bia gạo, do lá tiết ra một chất gôm thơm. Lá non được dùng để làm gia vị.

  • Ở Ấn Độ, quả được dùng do tính chất thơm và kích thích, săn se, kiện vị, kích thích tiêu hoá, chữa đau bụng, ỉa chảy[Chopra et al., 2001: 260].
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/sen-hoi.html/feed 0
Sung ngọt https://tracuuduoclieu.vn/sung-ngot.html https://tracuuduoclieu.vn/sung-ngot.html#respond Mon, 02 Aug 2021 06:12:35 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=57274 Mô tả
  • Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao 3 – 10m. Thân hình trụ rất to, vỏ nhẵn màu xám.
  • Lá mọc so le, hình trứng rộng, dài 12 – 15 cm, rộng 10 – 18 cm, chia 3 – 7 thùy sâu có lông, mặt trên xanh sẫm bóng, mặt dưới nhạt và nháp.
  • Quả dạng sung, dài 3 – 5 cm, gần hình cầu ở phần trên, thót dần về phía cuống giống quả lê, vỏ ngoài màu lục, khi chín màu tím.
  • Toàn cây có nhựa.
  • Mùa hoa: tháng 4 – 5; mùa quả: tháng 9 – 10.

Phân bố, sinh thái

Ficus L. là chi lớn nhất trong họ Moraceae, ở Việt Nam hiện tại đã biết tới 98 loài, chưa kể thứ (var). Loài sung ngọt trên đây vốn có nguồn gốc ở vùng Trung Đông, sau phát tán và được đem trồng ở nhiều nơi trên thế giới.

Ở Việt Nam, trong “Từ điển cây thuốc Việt Nam, 1997” có ghi cấy trồng ở Khánh Hòa và Phú Yên để lấy quả ăn, nhưng không đề cập rõ về thời gian nhập nội và địa điểm hiện còn đang trồng. Cũng theo tài liệu trên và một vài tài liệu khác, thì sung ngọt là loại cây ưa sáng, khi còn nhỏ ưa ẩm, nhưng khi đã trưởng thành có khả năng chịu được khô hạn.

Bộ phận sử dụng:

Quả và rễ

Thành phần hoá học

Lá chứa tinh dầu, tanin, chất nhựa, vitamin C, chất đắng ficusin và berganten (Stephan Nicolov, 2006. Encyelopedia of medicinal plants in Bulgaria, P.427).

Quả chứa đường (50 – 60%) pectin, cellulose, chất đạm, acid carbocyclic, vitamin, enzym protease, acid amin, acid finuaric, acid shikimic, acid quinic, furocoumarin, bergarten và psoralen [Phạm Hoàng Hộ, 2006, cây có vị thuốc ở Việt Nam, tr.399].

  • Theo các tác giả Trung Quốc, sung ngọt còn chứa ficusogenin, taraxateryester, furocoumaric – acid – O – β – D – glucofuranosid. [Trung Dược đại từ điển, 1993, vol. I, 746].

Tác dụng dược lý

Sung ngọt giàu vitamin C, có tác dụng kháng khuẩn và chống viêm (Vohora S.B., 1986). Nhựa mủ của sung ngọt ức chế sự liên kết của 3H – benzo (a) pyren là một chất hoá học gây ung thư, với protein của tiểu thể gan một cách phụ thuộc vào liều.

Một hỗn hợp của chất 6 – O – acy – beta – D – glycosyl – beta – sitosterol với lượng nhỏ stearyl và oley phân lập từ nhựa mủ của sung ngọt, đã được chứng minh là một chất có tác dụng độc hại tế bào mạnh.

Tính vị, công năng

Quả và rễ sung ngọt có vị ngọt, tính bình, Có tác dụng thanh nhiệt, kiện vị, chống ho, cầm máu, trị ly, tiêu thũng, nhuận phế.

Công dụng

Không thấy có tài liệu về công dụng làm thuốc của cây sung ngọt ở Việt Nam.

Ở Trung Quốc, quả và rễ được dùng chữa tiêu chảy, bệnh trĩ, mụn nhọt, viêm phế quản, ho, suyễn [Võ Văn Chi, 1997: 1074].

Ở Ấn Độ, Quả sung ngọt được ăn dưới dạng tươi, khô, bảo quản, làm mứt hoặc đóng hộp, để làm rượu vang. Quả tươi hoặc khô có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, làm dịu, làm mềm da và bổ. Nó được dùng dưới dạng mứt và sirô. Quả được coi là có tác dụng dự phòng thiếu máu do dinh dưỡng kém. Lá được dùng làm thức ăn cho gia súc. Nhựa cây được dùng làm thuốc trị giun sán. Trong y học cổ truyền Ấn Độ, quả sung ngọt còn được dùng trị chảy máu cam, đau ngực.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/sung-ngot.html/feed 0
Lúa mì https://tracuuduoclieu.vn/lua-mi.html https://tracuuduoclieu.vn/lua-mi.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:51:34 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=56733 Mô tả
  • Lúa mì là một loại cây thảo sống lâu năm, có rễ hình sợi và xơ.
  • Thân cây cao từ 0,8 đến 1,5 mét, có màu xanh nhạt, hình trụ, nhẵn và đôi khi có màu xám.
  • Các lá mọc xen kẽ dọc theo thân cây và có màu xanh hoặc xanh xám, nhẵn và đôi khi có màu xám. Những lưỡi dao của lá mọc dần dần và uốn cong, phần gốc của lá có các cực quang tròn với các mép gợn sóng giống như sẹo. Các bẹ lá hở giống như lá cây, dây chằng có màng ngắn và dài khoảng 1-2mm, trong khi đó hạch sưng to và sần sùi.
  • Mỗi thân cây kết thúc bằng một cành hoa thẳng đứng, gai hoa này có màu xám hoặc xanh lục với các mảng đậm hơn. Mỗi bông hoa con dài khoảng 10-15mm, bao gồm một cặp chùm hoa ở gốc cùng với 2-5 hoa con. Các vảy dài 9-11mm và có hình trứng, lồi dọc theo bề mặt và nhẵn. Trong hoa con, các màng nhợt nhạt xuất hiện dọc theo các mặt bên trong. Ở đỉnh của cả hạt và nốt sần đều có 1-2 răng nhỏ.
  • Thời gian ra hoa thường từ cuối mùa xuân đến giữa mùa hè, và hoa được thụ phấn bởi gió. Hoa được thay thế bằng các hạt dài 7,5-8,5mm và ngang 3,5-3,75mm, có hình dạng elip và màu sáng. Các hạt lồi ở một bên và uốn cong ở bên kia.

Phân bố, sinh thái

Lúa mì là loại cây lương thực chủ yếu ở vùng ôn đới ấm và đã được trồng từ thời cổ đại. Cây trồng nhiều ở tất cả các quốc gia thuộc châu Âu, Liên bang Nga, Bắc Phi, Bắc Mỹ, Trung Cận Đông, Trung Á và Trung Quốc. Lúa mì cũng đã nhập nội vào Việt Nam từ những năm 1960. Cây được trồng ở Mộc Châu – Sơn La, Điện Biên, Trùng Khánh – Cao Bằng và Hà Giang. Tuy nhiên, do hạn chế về năng suất nên những điểm trồng lúa mì trên cũng chỉ dừng ở phạm vi thử nghiệm và hiện không còn trồng nữa.

Lúa mì là cây ưa sáng, ưa khí hậu ẩm mát, nên cây trồng ở nước ta trước đây chỉ thấy vào vụ xuân – hè, Cây gieo hạt vào đầu mùa xuân, đến mùa hè đã cho thu hoạch. Trong khi đó, thời vụ gieo trồng lúa mì trên thế giới, tuỳ theo vùng lãnh thổ và loại giống có thể khác biệt nhau. Toàn bộ vòng đời của cây chỉ kéo dài dưới 6 tháng.

Bộ phận dùng

Hạt

Thành phần hóa học

Trong hạt lúa mì chứa nhiều nhóm chất quan trọng như:

  • Các chất khoáng: Ca, Mg, P, Fe, Na, K, Zn, V, Cu, S, CI, Si, Be, Cd, Cr, Mn, Mo, Ni, Sr, T, Co và phytin – phospho các enzym: anpha – amylase, proteinase, peptidase, asparagin – synthetase, cytindin – deaminase, oxidase, lipoxidase, co – enzym, acid glutamic decarboxylase (CA. 1976, 85, 37259x).
  • Các vitamin, caroten, thiamin, riboflavin, acid nicotinic, cholin, tocophenol, xanthophyl (lutein).
  • Các carbohydrat như tinh bột, cellulosa, hemicellulosa, levosin, sorleosa (CA, 1976, 85, 23392v).
  • Các protein như cytochrom C (một loại haemoprotein) các acid amin như: arginin, histidin, isoleucin, leucinlysin, methionin, phenylalanin, valin, threonin, tryptophan, adenin, tyamin, cholin, betain.

Tác dụng dược lý

Một thuốc thảo dược Trung Quốc là một hỗn hợp của hạt lúa mì, rễ cam thảo và đại táo có tác dụng rõ rệt trên chứng mất ngủ, co giật trẻ em và dễ bị xúc động. Đã làm sáng tỏ cơ chế tác dụng an thần của thuốc này, nghiên cứu tác dụng trên các dòng ion qua màng và tác dụng gây tê, và đã đạt các kết quả sau:

  • Thuốc có tác dụng ức chế các dòng natri, calci và kali ở tế bào thần kinh ốc sên;
  • Thuốc có tác dụng ức chế trên hoạt tính kích thích gây bởi pentylentetrazol;
  • Thuốc có tác dụng gây tê trên các sợi dây thần kinh ếch. Các kết quả nghiên cứu gợi ý thuốc này có tác dụng ức chế trên tính tăng hưng phấn của màng tế bào thần kinh và đây là nguyên nhân chính của tác dụng an thần của thuốc (Tsuda Tet al., 1986).

Hạt lúa mi có tác dụng làm hạ cholesterol và triglycerid trong máu.

Lúa mì có thể dùng làm chất bổ sung thực phẩm cho các hợp chất chống oxy hoá như polyphervol và flavonoid (Kukarni S.D et al., 2006). Cây lúa mì có hoạt tính chống oxy hoá tương đương hoặc cao hơn một số củ quả và rau như: nghệ, tỏi, rau cải (spinach), hành tây, dâu tây, mận, cà rốt. Có mối liên quan giữa hoạt tính chống oxy hoá và hàm lượng các hợp chất phenolic trong đó có các flavonoid, Cây lúa mì được báo cáo là có tác dụng điều trị trong nhiều bệnh như viêm loét ruột kết mạn tính và bệnh thiếu máu.

Tính vị, công năng

Hạt lúa mì có vị ngọt, tính mát, có tác dụng làm săn phân.

Công dụng

Hạt lúa mì rang lên, sắc uống, có tác dụng chữa tiêu chảy. Ăn bánh mì mà không ăn kèm thêm rau thì bị táo bón.

  • Theo kinh nghiệm của nhân dân Tunisi, dùng rạ lúa mì sắc uống làm gẩy người, sút cân [Lê Trần Đức, 1997: 1085 – 1087].
  • Theo kinh nghiệm của nhân dân Ấn Độ, hạt lúa mì có tác dụng làm mát, chứa dầu; bổ, tăng dục, nhuận tràng, làm cho béo, làm tăng sự ngon miệng và vị giác, có tác dụng trị đa tiết mật.
  • Ở Trung Quốc, hạt rang lên được coi là có tác dụng trị chứng ra nhiều mồ hôi, đặc biệt trong bệnh lao phổi ở phụ nữ [Kiritkar K.R. et al., 1998: 2700 – 2701)
  • Trong y học dân gian Italia, mầm lúa mì hầm trong dầu ô – liu, được dùng ngoài, xoa trên da đầu để chữa chứng rụng tóc (De Feo V, 1992).

Bài thuốc có lúa mì

Chữa tiêu chảy ra nước: Bột mì rang cháy uống với nước cơm, hay với nước chè, liều lượng không hạn chế.

Chữa trẻ em tiêu chảy kéo dài:  Hạt lúa mì, ý dĩ, đều sao, sắc uống thay nước, hoặc tán bột, cho ăn hàng ngày thì khỏi [Lê Trần Đức, 1997: 1085 – 1087].

Nguồn: Từ điển cây thuốc Việt Nam

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/lua-mi.html/feed 0
Lát hoa https://tracuuduoclieu.vn/lat-hoa.html https://tracuuduoclieu.vn/lat-hoa.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:50:45 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=56727 Mô tả
  • Cây to, cao 20 – 25m, tán lá rộng. Thân có vỏ màu đen, chấm trắng, phủ lông sát ngắn, màu hung, thường nứt dọc và bong từng mảng. Gốc có bạnh vè. Cành non có lông màu vàng xỉn.
  • Lá kép lông chim, 7 – 20 đôi lá chét mọc so le, đôi khi gần đối, hình thuôn mũi mác, dài 10 – 12 cm, rộng 5 – 6 cm, gốc lệch, đầu thuôn nhọn; lá non màu hồng đỏ; cuống lá dài 30 – 50 cm.
  • Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành thùy thẳng đứng, thưa, có lông, ngắn hơn lá, dài 20 cm, lá bắc thuôn, sớm rụng, hoa lưỡng tính màu vàng nhạt, có cuống ngắn, đài hình sao, 5 răng ngắn, có lông ở mặt ngoài; tràng 5 cánh có thuôn dài, mép uốn cong, mặt ngoài hơi có lông, mặt trong nhăn; nhị 10, hơi ngắn hơn cánh hoa, gốc hơi phình, bao phấn nhẵn; bầu thuôn dài, có lông, thắt lại ở đầu, 3 ô, mỗi ô có 20 – 40 noãn.
  • Quả nang, hình trứng, dài 4 – 4,5 cm, rộng 3,5 – 4 cm, hơi có mũi nhọn ở đầu, nhẵn; hạt nhiều, nhỏ, dẹt, có cánh mỏng ở đầu.
  • Mùa hoa quả: tháng 7 – 10.

Phân bố, sinh thái

Chi Chukrasia A. Juss. chỉ có một loài lát hoa Việt Nam. Căn cứ vào hình thái lá, quả… các nhà thực vật học đã chia loài này thành 4 thứ (Varietas) và chỉ thấy ở các tỉnh phía Nam (Trần Đình Đại, 2003).
Lát hoa phân bố tự nhiên ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hoà Bình, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An… Cây còn được trồng ở khắp các địa phương.

Trên thế giới, lát hoa có ở Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Lát hoa là loại cây gỗ to, khi còn nhỏ là cây chịu bóng, lớn lên ưa sáng. Cây vốn mọc tự nhiên những vùng rừng núi đá vôi hoặc rừng trên núi đất lẫn đá; thường mọc lẫn với những cây gỗ lớn các họ Meliaceae, Anacardiaceae Lauraceae, Fabaceae… Độ cao phân bố không vượt quá 1.000m. Cây trưởng thành có thể ra hoa quả hàng năm, tái sinh tự nhiên từ hạt nhưng tỷ lệ nảy mầm thấp hơn nhiều trong trồng trọt (Vu Van Dung, et al., 1997).

Lát hoa là cây cho gỗ quý, lõi gỗ màu nâu nhạt, có nhiều vấn đẹp, dùng để đóng đồ gỗ cao cấp. Do bị khai thác kiệt quệ trong tự nhiên, cây đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1996) để bảo vệ. Tuy nhiên, đây là loài cây gỗ dễ trồng, mọc nhanh; sau khoảng 40 năm, có thể đạt đến đường kính thân 50 – 60 cm.

Bộ phận dùng

Vỏ.

Thành phần hóa học

  • Lá và vỏ chứa 22 và 15% tanin (The wealth of India, 1952). Ngoài ra còn chứa một chất keo tan trong nước có màu đỏ, thường được sử dụng để trộn với một số loại gum khác của Ấn Độ.
  • Theo Phạm Hoàng Hộ (2006), lát hoa còn chứa tinh dầu.

Tác dụng dược lý

Tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm:

Dùng lá cây lát hoa chiết bằng các dung môi khác nhau như ether dầu hỏa, benzen, cloroform, ethylacetat và methanol, sau đó, cô chân không để thu được các cao tương ứng. Các cao này được thử tác dụng kháng khuẩn và kháng nấm. Kết quả cho thấy, cao chiết bằng ethylacetat và cao chiết bằng methanol có hiệu quả nhất trên hầu hết các vi sinh vật thử nghiệm (Nagalakshmi et al., 2001), [Fitoterapia, vol. 72, No. 1: 62 – 64].

Độc tính cấp:

Cao khô vỏ cây lát hoa có được bằng cách dùng vỏ thân vỏ cành của cây, phơi khô, nghiền thành bột thô, chiết bằng ethanol 50%, rồi cô dưới áp suất giảm ở nhiệt độ 50°C cho đến khô. Độc tính cấp đã được thử trên chuột nhắt trắng, dùng đường tiêm trong màng bụng, kết quả đã xác định được liều chết trung bình LD0 = 250 mg/kg [Dhar M.L. et al., 1974, Indian J. of experimental biology, vol. 12: 512 – 523].

Tác dụng trên hô hấp huyết áp:

Cao khô vỏ cây lát hoa được chiết như trên, tiêm tĩnh mạch cho mèo với liều 25 mg/kg làm tăng biên độ và tần số hô hấp [ Dhar M. et al., 1974, tài liệu đã dẫn]. Cao cũng có ảnh hưởng trên huyết áp mèo.

Tác dụng lợi tiểu:

Thử nghiệm được tiến hành trên chuột cống trắng 100 – 150g. Chuột được để nhịn đói qua đêm. Sáng hôm sau cho chuột uống dung dịch NaCl 0,9%, liều 5 ml/100g. Ở lộ thử thuốc, cho chuột uống cao khô vỏ cây lát hoa chiết như trên, với liều 60 mg/kg; ở lô đối chứng cho chuột uống urea 75 mg/kg. Kết quả cho thấy cao nghiên cứu có tác dụng lợi niệu mạnh hơn ở lộ đối chứng dùng urea (Dhar M.L. et al., 1974, tài liệu đã dẫn).

Tính vị, công năng

Vỏ cây, vỏ cành cây lát hoa có vị chát, có tác dụng làm săn se.

Công dụng

Vỏ cây, vỏ cành và lá non cây lát hoa được dùng chữa tiêu chảy. Ngày 5 – 10g sắc uống. Gỗ cũng được dùng như vỏ, nhưng liều 10 – 15g.

Ở Ấn Độ, người ta còn dùng lát hoa chữa tiêu chảy. Gỗ lát hoa dùng để chế tạo đồ dùng gia đình

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/lat-hoa.html/feed 0
Cây cóc https://tracuuduoclieu.vn/cay-coc.html https://tracuuduoclieu.vn/cay-coc.html#respond Wed, 14 Jul 2021 16:45:52 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=55899 Mô tả
  • Cây nhỡ, cao 5 – 10m. Cành có nhiều chấm trắng.
  • Lá mọc so le, 4 – 5 đôi lá chét hình thuôn, phiến lệch, gốc thuôn, đầu nhọn, mép khía răng hơi tròn, cuống lá kép tròn ở gốc và dẹt ở phía trên.
  • Cụm hoa hình chùy rộng, dài bằng lá, phân nhánh, nhẵn hoặc có ít lông: dài có răng cửa bầu dục; cánh hoa thuôn nhọn, nhị hơi ngắn hơn cánh hoa; bầu không cuống.
  • Quả mọng, hình bầu dục, nhẵn, khi chín màu vàng, hạt có nhiều lông dài dạng gai dày.

Phân bố, sinh thái

Chi Spondias L. ở Việt Nam có 3 loài, trong đó có loài cây cóc (S. cytherea Sonnerat) kể trên, được nhập nội để trồng lấy quả ăn.

Cây cóc có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á hoặc Nam Á. Có tài liệu cho rằng xuất xứ của loài này từ đảo Polynedi (Võ Văn Chi, 1997). Cây mọc tự nhiên ở vùng rừng thưa, đồng thời cũng được trồng khá phổ biến tại Philippin, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Ôxtraylia và một vài đảo quốc khác ở Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, cây cóc được trồng nhiều ở các tỉnh phía Nam, nhất là ở vùng Nam Bộ và Đông Nam Bộ.

Cây cóc có thể sinh trưởng và phát triển tốt ở cả vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm. Cây ưa sáng, nên nếu bị các loài cây gỗ khác che bóng chúng có rất ít quả và thậm chí không ra quả. Cây cóc sống được trên nhiều loại đất, bao gồm đất của vùng núi đá vôi, đất bazan, đất pha cát hơi chua… và có khả năng chịu hạn tốt.

Bộ phận sử dụng

Lá, vỏ thân và quả; dùng tươi hay phơi khô.

Thành phần hoá học

Cây cóc chứa chất gồm là arabinogalactan từ chất gồm này người ta đã tách được polysaccharid mà thành phần chính chứa galactose, arabinose, manosexylon, rhamnose, acid glucononic và các dẫn chất 4 – 0 – methyl của chúng [Maritza, Gladys Leon de Pinto, Carbohydrate Research 338(2003) 619-624].

Tác dụng dược lý

Trong thử nghiệm dược lý phần trên mặt đất của cây cóc, đã nhận xét thấy tác dụng chống co thắt cơ trơn trên hồi tràng cô lập chuột lang (Bhakuni DC et al., 1969: 260).

Tính vị, công năng

Vỏ có vị chát, có tác dụng làm săn.

Công dụng

Quả có thịt cứng, chứa nhiều dịch màu vàng, có vị chua, thường dùng ăn. Ở Campuchia, vỏ cóc phối hợp với vỏ chiêu liêu, nghệ được dùng sắc uống để trị tiêu chảy (Võ Văn Chi, 1997: 296).

Ở Indonesia, phụ nữ lấy lá trộn với một số dược thảo khác để tẩy rửa làm sạch cơ thể sau khi sinh đẻ (Perry M.L et al., 1980: 16 – 17).

  • Ở Ấn Độ, quả có mùi vị giống như quả dừa hoặc quả xoài và ăn được, nhưng không được tất cả mọi người ta thích. Quả tươi cho dịch ép thơm ngon có thể dùng làm đồ uống hoặc nước quả. Lá được luộc hoặc hấp và ăn. Lá đôi khi được nấu với thịt để làm mềm thịt. Quả được coi là một nguồn cung cấp sắt (Chadha YR, 1976: 16 – 17).
]]>
https://tracuuduoclieu.vn/cay-coc.html/feed 0