Mô tả
- Cây nhỏ cao, thuộc thảo, mọc thẳng đứng, cao từ 0.3-0.8m, nhiều đốt, rất nhiều cành.
- Lá mọc đối, cuống ngắn, phiến lá hình trứng thuôn dài hay hơi hình mác, hai đầu nhọn, mặt nhẵn, dài 3-12cm, rộng 1-3cm, nguyên, mềm.
- Hoa màu trắng, điểm hồng, mọc thành chùm ở nách lá hay đầu cành, thành chuỳ.
- Quả dài, 15mm, rộng 3,5mm, hơi nhẵn. Hạt hình trụ, thuôn dài, mùa hoa tháng 9-10.
Phân bố
Cây mọc hoang dại và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc để làm thuốc.
- Bộ phận dùng: Người ta dùng rễ hay toàn cây phơi hoặc sấy khô, có nơi chỉ dùng lá và cành mang lá.
- Thu hái: gần như quanh năm, nhưng thường mùa hè dùng lá và phần trên mặt đất của cây, mùa thu đông dùng rễ và toàn cây.
Thành phần hóa học
- Cây này được nghiên cứu ở Ấn Độ từ lâu. Năm 1887, E. Pozzi đã cho biết trong cây có một tỷ lệ tanin khá cao tập trung ở vỏ thân, cành và vỏ rễ.
- Năm 1952, Kleipool còn phát hiện trong công cộng một chất không có vị đắng thuộc nhóm các chất lacton và đặt tên là neoandrographiolide (Nature Gr. Br., 1952, 169, 33-34) Năm 1952, Chakravarti Mrs D. và R. N. Chakravarti đã xác minh rằng andrographiolide là một trihydroxylacton với một nhón hydroxyl bậc ba. Các tác giả này đã nghiên cứu cấu trúc và quang phổ hấp thụ và đã bác bỏ giả thuyết của Guhasircar và Hoktader ự. Ind. Chem. Soc., 16, 1939, 333) cho rằng trong androraphiolide có một nhóm methylendioxyl.
Công dụng
Tính vị: vị đắng, tính hàn
Tác dụng: thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chỉ thống. Dùng trong những trường hợp lỵ cấp tính, viêm ruột và dạ dày, cảm mạo, phát sốt, viêm họng, Viêm phổi, dùng ngoài chữa rắn độc cắn, xương khớp đau nhức.
Tham khảo
Cây này được dùng từ lâu trong nhân dân Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và Inđônêxia.
Theo tính vị ghi trong tài liệu y học dân gian Quảng Châu (Trung Quốc) thì cây này có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chỉ thống (giảm đau). Dùng trong những trường hợp lỵ cấp tính, viêm ruột và dạ dày, cảm mạo, phát sốt, viêm họng, amiđan, viêm phổi, dùng ngoài chữa rắn độc cắn, xương khớp đau nhức.
- Tại Ấn Độ cây này được dùng trong những trường hợp yếu toàn thân, yếu sau khi khỏi sốt, ỉa chảy và lỵ.