Mục lục
Mô tả cây
Cây nhỏ mọc hằng năm, cao 0,3-1m. Trên thân có lông trắng, lá mọc so le, hình trứng đầu nhọn, đáy lá tròn, mép có răng cưa dài 6-9cm, rộng 5- 7cm, cuống lá dài 2-4cm, có lá kèm.
Hoa mọc thành chùm dài 6-10cm ở kẽ lá, cành hoa màu vàng nâu nhạt. Quả hình trứng màu đen dài 5mm, rộng 3mm. Hạt hình thận hay hình trứng dẹt dài 5mm, rộng 3mm có màu nâu đen hay đen. Trên mặt hạt có vân hình những hạt nhỏ giữa hơi lõm, mùi thơm, vị cay .
Phân bố, thu hái và chế biến
- Cây nguồn gốc ở Ấn Độ. Có mọc ở Việt Nam nhưng ít khai thác.
- Gần đây, ta di thực từ Trung Quốc, cây mọc khỏe. Gieo hạt vào mùa xuân, phủ ít đất lên. Sau nửa tháng cây mọc, mỗi cây trồng cách nhau 10-29cm. Vào mùa thu quả chín hái về phơi khô, đập lấy hạt, sảy sạch vỏ và đất cát là được. Khi dùng để nguyên hoặc sao, hoặc tẩm muối rồi mới sao khô.
Thành phần hóa học
- Trong hạt phá cố chỉ có khoảng 20% chất dầu, một ít tinh dầu trong đó có psoralen, isopsoralen (angelixin), ancaloit, glucozit và 9,2% chất nhựa.
- Hoạt chất là tinh dầu, có tác dụng đối với vi trùng streptocoe trên da, dùng chữa bệnh bạch biến vì nó kích thích sự bài tiết các sắc tố đen.
Công dụng và liều dùng
- Theo tài liệu cổ, phá cố chỉ có vị cay, đắng, tính đại ôn, vào 3 kinh tỳ, thận và tâm bào. Có tác dụng bổ mệnh môn tướng hỏa nạp thận khí, là thuốc cường tráng dùng chữa các chứng ngũ lao, thất thương, cốt tủy thương bại, phụ nữ khí huyết xấu, trụy thai, tỳ thận hư hàn, đái són, lưng gối lạnh đau. Phàm những bệnh âm hư hỏa động đi tiểu ra huyết, máu đỏ, đại tiện táo kết không dùng được.
- Phá cố chỉ là một vị thuốc còn dùng trong phạm vi dân gian, làm thuốc bổ dùng cho người già yếu, đau lưng, mỏi gối, tiểu tiện nhiều, hoạt tinh.
- Phụ nữ dùng chữa bệnh kinh nguyệt không đều, khí hư. Hạt ngâm rượu, dùng bôi ngoài da chữa bệnh bạch biến. Ấn Độ dùng làm thuốc chữa hủi, bệnh ngoài da.
- Liều dùng: Ngày uống 6-15g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc thuốc viên.
Vị thuốc Phá cố chỉ
Hình ảnh vị thuốc Phá cố chỉ
Tính vị: Vị đắng, cay, rất ôn, không độc.
Quy kinh: Vào kinh Thận, tỳ.
Công dụng: Ôn thận, tráng dương, chỉ tả, Bổ Thận, tráng dương, cố tinh, súc niệu, ôn Tỳ, chỉ tả
Chủ trị: Trị Thận hư, Di tinh, tiêu chảy, đái dầm, Trị liệt dương, hoạt tinh, đái dầm, tiểu nhiều, tiêu chảy do Tỳ hư
Liều dùng
- 3-9g.
Kiêng kỵ:
- Âm hư hỏa vượng, dương vật hay cương lên di mộng tinh, bón, đái ra máu, tiểu nhiệt, đỏ mắt, đắng miệng, khát nước do nội nhiệt, đỏ mắt do hỏa thượng lên, ăn vào đói liền, yếu nhiệt do phong thấp, yếu xương cấm dùng.
Bài thuốc có vị Phá cố chỉ
Trị tiểu nhiều lần do thận khí hư hàn:
Bổ cốt chỉ 300g chưng với rượu. Hồi hương 300g (sao muối), tán bột, trộn hồ làm viên với rượu bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 100 viên với nước muối hoặc lấy bột này chấm thận heo nướng chín ăn.
Trị trẻ nhỏ đái dầm do bàng quang hư hàn:
Bổ cốt chỉ, sao, tán bột, mỗi đêm uống 1,5g với nước nóng.
Trị hư nhược ở hạ nguyên, tay chân nặng nề, ra nhiều mồ hôi trộm:
Bổ cốt chỉ 120g, chưng với rượu. Hồ đào nhục 30g (bỏ vỏ), Trầm hương tán bột 4,5g, luyện với mật làm viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 20-30 viên với muối, rượu nóng lúc đói, uống từ tiết hạ chí đến đông chí, ngày 1 lần
Trị hư lao, suy nhược:
Bổ cốt chỉ 480g, ngâm rượu 1 đêm, phơi nắng, rồi thêm vào 1 thăng dầu mè, trộn đều, sao cho đến khi nào hạt mè hết nổ thì thôi, xong rây bỏ mè đi, chỉ lấy Bổ cốt chỉ tán bột, dùng giấm nấu bột gạo làm viên to bằng hạt ngô đồng, uống lúc bụng đói với rượu nóng, muối loãng (Kinh Nghiệm Phương)
Trị đau lưng do thận hư:
Bổ cốt chỉ 30g, sao, tán bột, uống với rượu nóng, mỗi lần 9ghoặc thêm Mộc hương 3g.
Trị thận khí suy nhược, Đau lưng:
Phá cố chỉ tẩm rượu sao 480g, Đỗ trọng bỏ vỏ, xắt lát, sao nước gừng, 480g, Hồ đào nhục (bỏ vỏ) 20 trái, tán bột. Lấy tỏi giã nát, lấy 30g trộn làm viên, to bằng hạt ngô đồng, uống mỗi 20 viên với rượu nóng, lúc đói. Phụ nữ không uống được rượu thì uống với giấm nhạt. Uống như thế khỏe mạnh gân cốt, thông huyết mạch, đen râu tóc, đẹp nhan sắc.
Trị dương vật không dịu xuống được, tính khí tự chảy:
Phá cố chỉ, Phỉ tử mỗi thứ 30g, tán bột, mỗi lần lấy 9g, sắc với 2 chén nước còn lại 6 phân, ngày uống 3 lần cho đến khi khỏi.
Trị tiêu chảy do Tỳ Thận suy hư:
Phá cố chỉ (sao) 240g, Nhục đậu khấu sống 120g,tán bột. Táo (loại thịt dầy) giã nhuyễn, trộn các thuốc bột trên, làm thành viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 50-70 viên lúc đói với nước cơm.
Trị đau lưng do chấn thương, ứ huyết, ngưng trệ:
Phá cố chỉ (sao), Lạt quế, lượng bằng nhau, tán bột, mỗilần uống 6g với rượu.
Định tâm bổ thận:
Phá cố chỉ sao 60g, Bạch phục linh 30g, tán bột. Một dược 15g, lấy rượu ngâm đổ đầy 1 lóng ngón tay, nấu chảy, hòa với bột làm viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên với nước sôi.
Trị tiêu chảy, tiêu lỏng, Kiết lỵ mãn tính:
Phá cố chỉ (sao) 30g. Anh túc xác (nướng kỹ) 120g, tán bột, luyện mật ong làm viên, to bằng hạt Nhãn. Mỗi lần uống 1 viên với nước gừng và Táo.
Trị đau răng lâu ngày do thận hư:
Bổ cốt chỉ 60g, Thanh diêm 15g, sao, tán bột, bôi vào.
Trị sâu răng, răng đau buốt lên đầu:
Bổ cốtchỉ (sao) 15g, Nhũ hương 7,5g, tán bột, bôi vào hoặc làm viên nhét vào chỗ răng đau hàng ngày.
Trị đái dầm, Di tinh, liệt dương:
Bổ cốt chỉ, Thỏ ty tử, Hồ đào nhục mỗi thứ 9g, Trầm hương 1,5g, trộn với mật làm viên, mỗi lần uống 9g,ngày
Tham khảo thêm:
Bổ cốt chỉ vị cay, khí ấm, không độc, đó là vị thuốc ‘Dương trung chí âm’ xuống nhiều mà lên ít, nó nhập vào kinh Tâm bào lạc, Tỳ, Mệnh môn, nó làm ấm cho thủy tạng, trong âm sinh ra dương, đó là vị thuốc chủ yếu để tráng hỏa mà ích cho thổ, trị được chứng ngũ thương thất lao, vì những bệnh này mới bắt đầu ở tỳ và thận, là 2 kinh đã hư mà sinh ra, phải dùng nó để làm ấm thủy tạng lại, bổ hỏa để sinh được thổ khí thì các khí chân dương đủ sức bổ để phát lên mới tiêu được cơm nước, xay lọc được thức ăn thành chất bổ để hóa huyết là những chất tinh túy từ Tỳ đưa lên Phế để nuôi ngũ tạng, nếu thất tình làm hại thì sinh ra bởi phong hay lạnh, do chỗ dương khí suy thì phong hàn thừa cơ đó bám vào làm gân xương đau nhức. Thận có hư hàn thì tinh mới chảy ra, vì thận chủ về tàng tinh nhưng tủy lại là gốc của tinh, nếu khí chân dương không được kiên cố thì những chứng trên sẽ biểu hiện ngay, nên phải làm cho nó bền vững tại gốc thì dương khí nó sẽ sinh ra ngay, tất nhiên những chứng kể trên phải lui hết. Đànông lấy tinh làm chủ, đàn bà lấy huyết làm chủ. Người đàn bà huyết xấu khí hư thì cũng như người đàn ông suy thận hàn, rồi sinh ra những bệnh khí hàn làm huyết giảm đi. Đàn ông thận lạnh thì tinh khí tự chảy, những vị ấm mà cay thì hay tán bởi hỏa hay tiêu tan các vật nên nó hay trụy thai.
Bổ cốt chỉ trị được chứng thận tiết, thông được Mệnh môn, ấm được đơn điền, thu liễm tinh thần. Bổ cốt chỉ vị cay đắng, khí ấm, nhập kinh Tỳ, Thận, Đại trường, làm ấm thận, ôn Tỳ, tiêu hóa được cơm nước, trị được Đau lưng, chân lạnh mỏi, tiêu chảy do thận suy, làm an thai, di mộng tinh, đái dầm, liệt dương, bìu đái lở ẩm ướt, đau nhức các khớp xương. Bổ cốt làm ấm được cả Thủy lẫn Thổ, tiêu hóa được thức ăn rồi đưa chất bổ lên Can Tỳ, thu liễm được chứng hoạt tinh, tiết tả, Di tinh, đới hạ. Những sách khác đều ca tụng nó là vị thuốc làm sống lâu, tăng tuổi tho.ïTuy không hoàn toàn tin tưởng nhưng đó cũng là vị thuộc đáng kể vậy.