Mô tả cây
Rau má là một loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá hình mắt chim, khía tai bèo, rộng 2-4cm, cuống dài 2-4cm trong những nhánh mang hoa và dài 10-12cm trong những nhánh thường. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 đến 5 hoa nhỏ. Quả dẹt rộng 3-5mm, có sống hơi rõ.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam và các nước vùng nhiệt đới như Lào, Cămpuchia, Inđônêxya, Ấn Độ v.v…
- Toàn cây khi tươi có vị đắng, hăng hơi khó chịu; khi khô thì chỉ còn mùi cỏ khô. Thu hái quanh năm. Dùng tươi hay sao vàng.
Thành phần hoá học
Rau má được nhiều người nghiên cứu, nhưng kết quả chưa thống nhất.
- Theo Basu và Lamsal (1947), trong rau má có một ancaloit gọi là hydrocotylin C22H33O8N, có độ chảy 210-212°C. Ancaloit này cho các muối oxalat với độ chảy 295°C, muối picrat với độ chảy 110-112°, muối cloroplatinat với độ chảy 134-136°c.
- Theo Bửu Hội, Rakoto Ratsimamanga và Boiteau, trong cây rau má thu hái ở đảo Mangat có chứa một glucozit gọi là asiaticozit với công thức C54H88O23 Thuỷ phân asiaticozit sẽ cho axit asiatic và glucoza. Chất glucozit này có tinh thể, tan trong rượu; độ chảy 230-233°C, có thể cho một dẫn xuất tan trong nước gọi là oxyasiaticozit có tác dụng điều trị được bệnh lao.
- Một số tác giả khác (Lythgoe và Trippet) nghiên cứu rau má mọc ở Xrilanca (1949) đã lấy ra được một glucozit khác đặt tên là xentellozit (centelloside) có tính chất gần như asiaticozit.
- Hiện nay, một số tác giả cho rằng hoạt chất của rau má là những saponin (asiaticozit và Madescassol), có tác dụng tới mô liên kết, giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng, do đó làm cho vết thương mau lành và lên da non.
Vị thuốc Rau má
Hình ảnh vị thuốc rau má
Tính vị: vị hơi đắng, ngọt, tính hơi mát
Công dụng: Thanh nhiệt giải độc, tán ứ chỉ thống, lương huyết sinh tân, lợi niệu.
Chỉ định và phối hợp:
- Thường dùng trị cảm mạo phong nhiệt, thuỷ đậu sởi, sốt da vàng mặt, viêm họng, sưng amidan, viêm khí quản, ho, viêm đường tiết niệu, đái dắt đái buốt, còn dùng trị thổ huyết, chảy máu cam, tả lỵ, khí hư, bạch đới, giải độc lá ngón và nhân ngôn.
- Dùng ngoài trị rắn cắn, mụn nhọt, lở ngứa và vết thương chảy máu.
Ở Trung Quốc, rau má được dùng trị cảm mạo phong nhiệt, viêm phần trên đường hô hấp, viêm gan, lỵ, cúm, ăn phải vật có độc, viêm màng phổi, rắn cắn, gai đâm vào thịt, trúng độc nấm dại, ngộ độc sắn, trúng độc thuốc nông dược, ngộ độc thức ăn và đòn ngã tổn thương.
Bài thuốc có vị Rau má
Chảy máu chân răng, chảy máu cam và các chứng chảy máu:
Rau má 30g, Cỏ nhọ nồi và Trắc bá diệp mỗi vị 15g sao, sắc nước uống.
Thống kinh, Đau lưng, đau bụng, ăn kém uể oải:
Rau má 30g, ích mẫu 8g, Hương nhu 12g, Hậu phác 16g. Ðổ 600ml nước, sắc còn 200ml chia 2 lần uống trong ngày.
Viêm tấy, mẩn ngứa:
Rau má trộn dầu giấm ăn, hoặc giã nát vắt lấy nước, thêm đường uống.
Thuốc lợi sữa:
Rau má ăn tươi hay luộc ăn cả cái và nước.
Chữa cảm nắng, say nắng:
Rau má tươi 60g, hương nhu 16g, lá tre 16g, lá sắn dây 16g. Cho khoảng 600ml sắc còn một nửa chia uống 2 lần trong ngày.