Mục lục
Mô tả cây
- Mạch ba góc là một cây thuộc thảo, có nhiều cành, cao từ 4-1,7m, trung bình 0,7m, thân hình trụ, màu xanh hay đỏ.
- Lá nguyên đơn, mọc cách, mép nguyên, có bẹ chìa, lá phía dưới hình tim, đầu hơi nhọn, có uống, lá phía trên giống hình mũi tên, không có cuống. gân lá hình chân vị. Hoa mọc hành chùm ở ngọn và nách lá.
- Hoa lưỡng tính chỉ có một vòng bao hoa, màu trắng, đỏ oặc trắng hồng. Bao hoa có 5 bản tồn tại trên quả. Nhị 8. Nhị có 3 vòi rời nhau. Bầu thượng có tuyến mật xung quanh.
- Quả khô có 3 góc gồm 2 lần vỏ, lớp vỏ ngoài đen xám khi già, lớp vỏ hạt vỏ trong mọng, màu trắng vàng, bao hoa tồn tại. Hạt có nội nhũ bột ớn, phôi thẳng, hình lá xếp nếp.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Cây được trồng ở nhiều tỉnh miền bắc nước ta như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn.
- Còn được trồng tại nhiều nước ở châu Âu, châu Á (Trung Quốc, Nhật).
- Mạch ba góc được trồng lấy hạt có bột ăn thay lúa ngô cho người và súc vật tuy nhiên ăn mạch ba góc không người rất mệt, nên thường trộn thêm với ngô và gạo.
- Bản thân cây mạch ba góc cũng có 2 loại: mạch ba góc đắng, trồng có năng suất thu hoạch cao hơn nhưng trước khi dùng phải luộc kỹ, bỏ nước đầu đi, nếu không thì đắng không thể ăn được, loại thứ hai gọi là mạch ngọt, năng suất thấp hơn nhưng ít đắng hơn có thể ăn trực tiếp ngay, không qua giai đoạn luộc bỏ nước, cho nên tuy gọi là ngọt chỉ là tương đối so với mạch ba góc đắng nói trên thôi.
- Mạch 3 góc ở tỉnh biên giới có thể trồng vào 2 vụ: vụ xuân hạ trồng vào tháng 1-2, đến tháng 4-5 thu hoạch; vụ thu đông trồng vào 8-9, đến tháng 11-12 thu hoạch, trung bình từ khi trồng đến khi thu hoạch là 2-3 tháng.
- Ta có thể trồng mạch ba góc để lấy quả ăn rồi dùng cây bỏ đi để chiết rutin hoặc ta có thể trồng để lấy lá và hoa chiết rutin mà không thu hoạch quả
Thành phần hoá học
Tỷ lệ rutin trong cây thay đổi tuỳ theo bộ phận, mùa hái và cách hơi sấy. Theo Couch (1944) nghiên cứu mạch ba góc trồng tại 4 địa phương khác nhau của Nhật Bản và cách thu hoạch khác nhau đã đi tới những kết luận sau:
- Tỷ lệ trong lá cao nhất, ví dụ như trong lá và hoa có tỷ lệ rutin cao nhất là 6,37% thì riêng trong lá tỷ lệ 7,92% còn trong hoa là 4,15%, tỷ lệ rutin trong thân thấp nhất 0,4% Trong quá trình phát triển của cây tỷ lệ rutin cũng thay đổi: người ta nhận thấy tỷ lệ rutin cao nhất vào khi hoa mới nở (ước 26 ngày sau khi gieo hạt). tuy nhiên có cây cho hiệu suất cao nhất khi hái thời kỳ 40-54 ngày sau khi gieo hạt, lượng rutin tăng tới 3,5-4 lần so với hiệu suất nói trên.
- Thời gian và nhiệt độ phơi sấy nguyên liệu cũng rất ảnh hưởng, phơi nhanh (40-60 phút) ở nhiệt độ 90-1050 rutin bị hao hụt ít nhất 38%, nhiệt độ thấp nhưng sấy kéo dài hoặc trên 1050 mà rút ngắn thời gian thì hiệu suất hụt từ 70-100%
- Hiệu suất trung bình tính từ 2-6%
Tác dụng dược lý
Chất rutin thường được dùng đề phòng các tai nạn về mạch máu như vữa xơ động mạch, tăng huyết áp (viêm võng mạc, ban xuất huyết) trong trường hợp viêm da do tia Rơnghen, trong sự rối loạn của tuần hoàn tĩnh mạch.
Rutin có tác dụng giống vitamin P, làm tăng độ chịu đựng và giảm độ thấm của mao mạch và có tác dụng lợi tiểu.
Vị thuốc mạch ba góc
Hình ảnh mạch ba góc
Tính vị: Vị chát, hơi the, tính bình; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi thấp, tiêu thũng.
Quy kinh: Vào Kinh tỳ, vị, đại tràng
Công dụng:
- Mạch Ba Góc Bột dùng ăn, nấu cháo, làm bánh, và là nguồn thức ăn chống đói quan trọng đối với đồng bào miền núi.
- Quả và lá dùng làm thức ăn chăn nuôi gia súc.
- Nhân dân một số nơi dùng lá nấu canh ăn để tiêu và làm cho sáng mắt, thính tai. Hạt cũng được dùng ở Trung quốc như hạt Bông chua hay Kim kiều mạch (Fagopyrum cymosum). Bột hạt được dùng như chất làm mềm và tan sưng.
- Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Chủ trị:
- Chữa viêm ruột cấp tính, tràng vị tích trệ, tiết tả, lỵ tật, tràng nhạc, bỏng, mụn nhọt, lở loét ngoài da.
- Giảm mỡ máu, giảm mỡ gan: dùng cho những người bị gan nhiễm mỡ, mỡ trong máu cao, hạ cholesterol,
- Làm chậm quá trình vữa xơ động mạch: dùng cho những người bị các bệnh về tim mạch, cao huyết áp…
Liều dùng
- Dùng dưới dạng sắc uống hoặc dùng để nấu cháo
- Dùng ngoài liều không cố định
Bài thuốc có vị kiều mạch (mạch ba góc)
Đầy bụng, ỉa chảy, mụn nhọt, nhiễm trùng, phụ nữ ra khí hư, ra mồ hôi trộn: Dùng kiều mạch lượng vừa đủ, sao vàng xay thành bột mỗi lần 10 – 15g, ngày uống 2 lần chiêu với nước sôi còn ấm.
Chữa suy nhược cơ thể, ra mồ hôi trộm:
Dùng bột kiều mạch 500g, cho đường đỏ (đường mía) sau đó cho nước vừa đủ nhào trộn làm thành bánh, rồi nướng chín ăn liên tục trong mấy ngày liền.
Chữa huyết áp cao, xuất huyết đáy mắt, ban xuất huyết:
Dùng lá kiều mạch tươi 100g, ngó sen 4 cái, sắc uống trong ngày (nhờ thân và lá kiều mạch có tác dụng cầm máu).
Bổ dưỡng, thanh nhiệt giải độc: Dùng món “mực nhồi kiều mạch”: Mực ống: 0,2kg; hạt kiều mạch 0,05 kg; nấm rơm 0,05 kg; hành tây 0,05 kg.
Chữa khí hư ở phụ nữ:
- Cách 1: Dùng mạch ba góc, sao vàng, tán thành bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 8-12g có thể làm thành viên cho dễ sử dụng (Kinh nghiệm dân gian Trung Quốc)
- Cách 2: Dùng bột mạch ba góc, hòa với lòng trắng trứng gà, hấp chín ăn (Kinh nghiệm dân gian Việt Nam)
Kiêng kỵ:
- Kiều mạch tính lương, người tỳ vị hư hàn không nên ăn; người hay bị dị ứng, người thế chất suy yếu, người mắc chứng ung thư phải cẩn thận khi ăn. Kiều mạch nghiền nhuyễn rồi ăn sẽ động hàn khí, phát bệnh kinh niên.
- Kiều mạch không nên ăn chung với thịt heo, phèn chua
Tham khảo thêm:
So với gạo tẻ và bột mì, hàm lượng protein của kiều mạch cao hơn nhiều, lysin và arginin càng cao hơn. Kiều mạch chứa nhiều protein và những chất khác gây dị ứng, do đó có thể dẫn phát hoặc làm nặng phản ứng dị ứng.
Trong kiều mạch có chứa sắc tố huỳnh quang màu đỏ, sau khi ăn có thể dẫn đến chứng dị ứng ánh sáng, viêm niêm mạc mắt, viêm phế quản, đau cổ họng, rát mũi tai, kích thích đường ruột và đường niệu.