A. Mô tả cây
- Tỏi đỏ là một loại cỏ sống lâu năm, cao từ 30-60cm, dò (củ) hình trứng dài 4-5cm, đường kính 2-3cm giống như củ hành nhưng dài hơn, ngoài phủ vảy màu đỏ nâu, phía trong màu nâu hồng đến đỏ nâu.
- Lá hình mác, gân lá song song, chạy dọc, trông giống như lá cau non, củ lại có tác dụng bổ cho nên có tên sâm cau (lá như lá cau, bổ như sâm); lá có thể dài 40-50cm, rộng 3-5cm.
- Từ củ mọc lên một cán mang hoa dài 30-40cm, trên cán có một lá dài 15-25cm, hoa mọc thành chum 3 lá dài, 3 cánh màu trắng hay vàng nhạt, 3 nhị màu vàng.
- Bầu hình trứng, 3 cạnh 3 ngăn dài 1mm, vòi dài 2,5mm, trên xẻ thành 3 trông như 3 mũi dùi.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Tỏi đỏ mọc hoang và được trồng lấy củ (dò) làm thuốc tại nhiều nơi như Hà Tây, Hoà Bình, Nghĩa Lộ, Nghệ An, hà Tĩnh, Quảng Nam, Đà Nẵng, Hà Nội cũng có một số nhà trồng.
Khi thu hoạch, đào lấy củ về, rửa sạch, bóc lớp vỏ bên ngoài, thái mỏng dùng tươi hoặc phơi hay sấy khô, rồi để nguyên hay tán bột mà dùng. Vị thuốc có vị đắng, mùi hơi hắc.
C. Thành phần hoá học
- Dựa theo thành phần hoá học đã được nghiên cứu của cây Eleutherine bulbosa Mill. Lê Văn Hồng và Nguyễn Văn Đàn (1973. Thông báo dược liệu 18) đã tiến hành nghiên cứu củ tỏi đỏ đã chiết và xác định được 4 chất là eleutherin C16H16O4 độ chảy 1750, izoeleutherin C16H16O4 độ chảy 1770, eleutherola C14H12O4 độ chảy 2020-2030 và một chất chưa xác định được đặt tên là Ex.
- Sắc ký lớp mỏng của dịch chiết còn cho biết có 16 vết trong đó 9 vết màu vàng đậm nhạt khác nhau, 6 vết phát quang lơ và một vết màu hồng nhạt. Cả 3 hoạt chất đều có tác dụng kháng sinh đối với chủng Staphyllococ-cus aureus.
D. Tác dụng dược lý
Tác dụng kháng sinh: Dịch chiết tỏi đỏ tẩm giấy có đường kính 10mm đặt trên thạch có cấy vi trùng có tác dụng hạn chế sinh sản của vi trùng Diplococcus pneumonia, Streptococcus hemolyticus Staphylococcus aureus. Tác dụng yếu hơn đối với Shigella flexneri, Shiga, Bacillus mycoides, B. anthracis. Không có tác dụng đối với Escherichia coli, Bacillus pyocyaneus, B.diphteriae.
Tác dụng chống viêm: Làm giảm phản ứng phù thực nghiệm trên chân chuột (thí nghiệm so sánh với hydrococtison thấy gần tương tự).
Độc tính: Chuột nhắt uống với liều 169g/kg (1 lần), thỏ uống 26g/kg/ngày (uống liền 3 ngày) không biểu hiện nhiễm độc, súc vật sống bình thường. Cho thỏ uống với liều 10g/kg/ngày, liền trong 30 ngày. Con vật khoẻ mạnh bình thường, giải phẫu không thấy tổn thương gan hay thận. Trên lâm sang, thấy có tác dụng tốt đối với chốc đầu trẻ em, nhọt đầu đinh, viêm da mủ, viêm họng cấp và mãn tính, chàm nhiễm trùng, tổ đỉa, vẩy nến… (Khoa da liễu bệnh viện Bạch Mai và Quân y viện 108).
E. Vị thuốc Tỏi đỏ
Hình ảnh vị thuốc Tỏi đỏ
Tính vị: Vị ngọt nhạt, tính hơi ấm
Công dụng:
Thường được dùng trị Thiếu máu, vàng da, hoa mắt, chóng vàng Nhức đầu, mệt mỏi, băng huyết, ho ra máu, thương tích lưu huyết, ho, ho lao, ho gà, viêm họng cấp và mạn, tê bại do thiếu dinh dưỡng, đinh nhọt, viêm da, lở ngứa, chốc đầu trẻ em, tổ đỉa, vẩy nến.
Chữa cơ thể suy nhược, thiếu máu, vàng da, nhức đầu, kinh nguyệt không đều, khó ngủ, viêm gan thận, bệnh ngoài da, nóng hâm hấp, sa trực tràng…
Bài thuốc Tỏi đỏ
Chữa cơ thể suy nhược, thiếu máu, vàng da, nhức đầu, kinh nguyệt không đều, khó ngủ: Đảng sâm 15g, Hoàng kỳ 15g, Sâm đại hành 15g, Xuyên khung 6g, Đương qui 10g.
Gia giảm:
- Nếu có phong thấp, đau nhức gia: Kê Huyết đằng 10g, Gấm 10g, Lá lốt 10g, Thủy xương bồ 6g.
- Nếu bị viêm đường tiết niệu, gia: Lá Đại bị 10g, Rễ tranh 10g, Hoạt thạch 5g.
- Nếu có sa trực tràng, trĩ, gia: Dây mấu 10g, Vỏ cây Ngái 10g, Rễ cây gai 15g.
- Nếu có mất ngủ, gia: Ngọc trúc 10g, Bá Hập 10g, Lá mơ lông 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Liên tục từ 10 – 20 thang.
Ngâm rượu bổ trị đau lưng, mỏi gối, kém ăn, mệt mỏi:
Đảng sâm 20g, Sâm đại hành 20g, Đương qui 20g, Sinh địa 20g, Huỳnh kỳ 20g, Đỗ trọng 10g, Bạch truật 10g, Câu kỷ tử 15g, Lộc nhung 15g, Đại hồi 5g, Nhục quế 5g, Đại táo 10 quả. Ngâm 2 lít rượu 40o. Lần uống 1 ly 30-50 ml.
Chữa vết thương bị bầm dập, trầy sướt, chảy máu, làm độc, ung nhọt:
Dùng củ sâm đại hành tươi, giã nhuyễn bó hay đắp lên vết thương, rất mau lành.