Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Wed, 06 Nov 2024 09:32:15 +0700 vi hourly 1 Đánh giá độc tính của chiết xuất từ loài Celastrus hindsii Benth ở Việt Nam https://tracuuduoclieu.vn/danh-gia-doc-tinh-cua-chiet-xuat-tu-loai-celastrus-hindsii-benth-o-viet-nam.html https://tracuuduoclieu.vn/danh-gia-doc-tinh-cua-chiet-xuat-tu-loai-celastrus-hindsii-benth-o-viet-nam.html#respond Sat, 19 Dec 2020 02:55:38 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?p=47062 Thanh Loan Pham, Van Huy Nguyen, Thi Tam Tien Ha, Thi Le Thu Hoang, Chi Nghia Phan, Thi Quyen Nguyen (2020)

Pak. J. Biol. Sci., 23 (8), pp. 1096-1102

1. MỞ ĐẦU

Qua quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện và phân lập:

  • Lá loài Celastrus hindsii Benth. chứa nhiều terpenoit, bao gồm một loạt các sesquiterpenoit, các ancaloit và flavonoit hoạt tính sinh học khác nhau.
  • Đặc biệt, chất celahinine A, một pyridine sesquiterpene alkaloid và polyester A gây độc tế bào mạnh đối với Hepa-2 (u gan), Hela (cổ tử cung ung thư biểu mô), COLO-205 (ung thư biểu mô ruột kết) và KB (vòm họng ung thư biểu mô) tế bào in vitro được phân lập từ lá cây khô của C. hindsii bởi Kuo và cộng sự.
  • Trong quá trình nghiên cứu liên tục trong 2 năm của họ sau đó, 4 hợp chất triterpene mới là celasdin-A, celasdinC, celasdin-B chống AIDS và maytenfolone-A gây độc tế bào cũng được phân lập từ thân khô của C. hindsii.

1. MỞ ĐẦU 1

Hình ảnh quả Xạ đen – Celastrus hindsii khi chín

2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Nguyên liệu

  • Chiết xuất của C. hindsii
  • Động vật thử nghiệm: Chuột bạch khỏe mạnh và đạt tiêu chuẩn nặng 20-30 g.

Phương pháp

  • Những con chuột này được chia ngẫu nhiên thành năm nhóm, mỗi nhóm bao gồm 10 con chuột.
  • Nhóm đầu tiên tiêm nước cất vào dạ dày, trong khi nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5 được tiêm chiết xuất C. hindsii (hòa tan trong nước) với liều lượng 1000, 3000, 5000 và 15000 mg kgG1, tương ứng (liều lượng được tính theo trọng lượng cơ thể).
  • Những con chuột được quan sát thấy bất kỳ dấu hiệu lâm sàng nào như: hô hấp, tỷ lệ tử vong trong 72 giờ đầu tiên để xác định liều cao nhất, không gây tử vong và liều thấp nhất tỷ lệ tử vong 100%. Quan sát thêm về hành vi chung những thay đổi, da, lông và phân của chuột được thực hiện sau khi 7 ngày.

3. CÁC KẾT QUẢ

Tác dụng độc cấp tính của chiết xuất etanolic được xác định theo Phương pháp Litchfield-Wilcoxon và hướng dẫn SARTEM, trong đó liều thử nghiệm tối đa là 15000 mg kgG1 được áp dụng.

  • Sau 72 giờ uống chiết xuất C. hindsii, không tỷ lệ tử vong được quan sát đối với bất kỳ nhóm thử nghiệm nào có phạm vi từ 1000, 3000, 5000 đến 15000 mg kgG b.wt.
  • Tổng thể kết quả quan sát hành vi cho thấy có không có bất kỳ thay đổi nào liên quan đến thuốc trong hơi thở, thức ăn và nước uống tiêu thụ và hệ tiêu hóa.
  • Ở liều cao nhất của 15000 mg kgG1, mặc dù những con chuột được thử nghiệm cho thấy giảm hoạt tính so với nhóm chứng, không ghi nhận tử vong.

==> Do đó, nghiên cứu chưa xác định được LD50 của thử nghiệm chiết xuất thực vật, khá an toàn ở mức liều lượng 15000 mg kgG1 trên chuột thí nghiệm.

4. KẾT LUẬN

Cây thuốc có tầm quan trọng và được công nhận trên toàn cầu. Các sản phẩm thảo dược có lợi thế lớn vì chúng đã được chứng minh rộng rãi an toàn hơn cho sức khỏe con người và môi trường.

C. hindsii chứa một số lượng lớn các chất chuyển hóa thứ cấp thể hiện một loạt các hoạt tính sinh học, được xác nhận là có độc tế bào mạnh chống lại nhiều tế bào ung thư. Việc nghiên cứu độc tính của chiết xuất lá C. hindsii được tiến hành trên chuột bạch với nhiều liều bắt đầu từ 1000, 3000, 5000 đến 15000 mg kgG1b.wt.

  • Nói chung, chiết xuất thực vật cao hơn 1000 mg kgG1 có thể được coi là an toàn và ít độc hại trong tiêu thụ thảo dược và sản phẩm thuốc. Kết quả độc tính chỉ ra rằng chiết xuất C. hindsii có thể được sử dụng như một nguồn sử dụng bằng miệng không độc hại. Kết quả có lẽ giải thích tại sao lá C. hindsii được sử dụng trong Việt Nam từ bao đời nay và an toàn.
Một số hoạt tính sinh học các hợp chất được tìm thấy trong C. hindsii đã có một ảnh hưởng sâu sắc trong điều trị viêm, kháng khuẩn, lão hóa ngăn ngừa, làm chậm sự tăng sinh của tế bào ung thư, giải độc và ngăn ngừa sự suy thoái của gan. Vì vậy, vai trò quan trọng của C. hindsii hỗ trợ chức năng gan và thận của con người khá rõ ràng.

Xem thêm: Sự thật về cây xạ đen giả lấy tiền thật đẩy bệnh nhân đến gần cái chết

Nguồn: Thanh Loan Pham, Van Huy Nguyen, Thi Tam Tien Ha, Thi Le Thu Hoang, Chi NghiaPhan, Thi Quyen Nguyen (2020), Evaluation of Acute Toxicity and Semi-chronic Toxicity of Extract from Celastrus hindsii Benth, Pak. J. Biol. Sci., 23 (8), pp. 1096-1102.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/danh-gia-doc-tinh-cua-chiet-xuat-tu-loai-celastrus-hindsii-benth-o-viet-nam.html/feed 0
Nghiên cứu tác dụng ức chế tế bào ung thư và chống oxy hóa của lá xạ đen (Celastrus hindsii Benth et Hook.) https://tracuuduoclieu.vn/nghien-cuu-tac-dung-uc-che-te-bao-ung-thu-va-chong-oxy-hoa-cua-la-xa-den-celastrus-hindsii-benth-et-hook.html https://tracuuduoclieu.vn/nghien-cuu-tac-dung-uc-che-te-bao-ung-thu-va-chong-oxy-hoa-cua-la-xa-den-celastrus-hindsii-benth-et-hook.html#respond Mon, 19 Oct 2020 03:26:28 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?p=46951 Bùi Thị Thanh Duyên, Đặng Kim Thu, Vũ Mạnh Hùng, Bùi Thanh Tùng (2020),

VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1, tr. 39-45.


Cây xạ đen được biết đến trong dân gian là một dược liệu có tác dụng trong điều trị ung thư. Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá tác dụng ức chế một số dòng tế bào ung thư và tác dụng chống oxy hóa của lá xạ đen (Celastrus hindsii Benth et Hook.). Kết quả nghiên cứu này cho thấy cao chiết lá xạ đen có tác dụng ức chế tế bào ung thư và chống oxy hóa cao.


ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc các bệnh ung thư đang ngày càng gia tăng và đang ở mức đáng báo động trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Ung thư là một bệnh lý ác tính của tế bào. Khi có các tác nhân gây ung thư, các tế bào tăng sinh không kiểm soát được, có khả năng xâm lấn và di căn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người [1].

Dược liệu là nguồn nguyên liệu dễ kiếm, chi phí rẻ, có tác dụng tốt và ít tác dụng không mong muốn. Xạ đen (Celastrus hindsii Benth et Hook.) là loại dược liệu phân bố nhiều ở Trung Quốc và các nước như Việt Nam, Ấn Độ, Myanma,… Tại Việt Nam, xạ đen phân bố ở các tỉnh như Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình,… [3].

Xạ đen cũng như nhiều loại cây khác thuộc họ Celastraceae rất giàu các hợp chất như alkaloids, sesquiterpenes, diterpenes, triterpen, glycoside tim và flavonoid; các hợp chất này thể hiện tác dụng diệt khuẩn và chống ung thư in vitro.

ĐẶT VẤN ĐỀ 1

Hình ảnh cây Xạ đen Celastrus hindsii Benth et Hook.

Theo y học cổ truyền, Xạ đen có tác dụng thông kinh, lợi niệu. Rễ và vỏ cây được dùng để trị các bệnh kinh nguyệt không đều, bế kinh, viêm thận và các bệnh liên quan đến đường tiết niệu [3]. Hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều bằng chứng khoa học về tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư của cây xạ đen. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá tác dụng gây độc tế bào ung thư và tác dụng chống oxy hóa của các phân đoạn dịch chiết lá cây xạ đen.

NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nguyên liệu

  • Lá xạ đen được thu hái vào tháng 6 năm 2019 tại Buôn Ma Thuột. Mẫu nghiên cứu được giám định thực vật học bởi Bộ môn Dược Liệu và Y học Cổ truyền, Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  • Lá xạ đen sau khi thu hái được rửa sạch, sấy khô ở 50ºC và cắt nhỏ. Tiến hành chiết xuất 1 kg lá xạ đen với dung môi ethanol 90% thu được dịch chiết, lặp lại 3 lần, gộp dịch chiết sau đó lọc. Cô quay thu hồi dung môi, thu được cao toàn phần EtOH (300g). Cao toàn phần EtOH (100g) tiếp tục được chiết phân đoạn như sau: hòa tan cao tổng vào nước sau đó chiết lần lượt bằng các dung môi n-hexane 5 g, EtOAc 32 g và n-Butanol 50 g thu được các phân đoạn dịch chiết. Cô quay thu hồi cắn dịch chiết các phân đoạn để tiến hành thử hoạt tính.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp đánh giá khả năng độc tính tế bào

Hoạt tính độc tính tế bào được thực hiện dựa trên phương pháp MTT (3-(4,5 dimethylthiazol-2 – yl )- 2, 5 – diphenyltetrazolium). Đây là phương pháp đánh giá khả năng sống sót của tế bào qua khả năng khử MTT (màu vàng) thành một phức hợp formazan (màu tím) bởi hoạt động của enzym dehydrogenase trong ty thể [6].

Nghiên cứu này chúng tôi tiến hành trên 3 dòng tế bào ung thư: ung thư gan Hep G2 (HB – 8065TM), ung thư phổi LU-1 (HTB – 57TM), ung thư vú MCF-7 (HTB – 22TM).

  • Mẫu thử được hòa tan bằng dung môi dimethyl sulfoxid (DMSO) với nồng độ ban đầu là 20 mg/mL.
  • Tiến hành pha loãng 2 bước trên đĩa 96 giếng thành 5 dãy nồng độ từ cao xuống thấp lần lượt là 2564; 640; 160; 40 và 10 µg/mL.
  • Nồng độ chất thử trong đĩa thử nghiệm tương ứng là 128; 32; 8; 2 và 0,5 µg/mL.
  • Chất đối chứng Ellipticine pha trong DMSO với nồng độ 0,01 mM.
  • Trypsin hóa tế bào thí nghiệm để làm rời tế bào và đếm trong buồng đếm tế bào.
  • Tiếp đó, pha tế bào bằng môi trường sạch và điều chỉnh mật độ cho phù hợp với thí nghiệm (khoảng 1-3×104 tế bào/mL tùy theo từng dòng tế bào).
  • Lấy vào mỗi giếng 10 µL chất thử đã chuẩn bị ở trên và 190 µL dung dịch tế bào.
  • Đối chứng dương của thí nghiệm là môi trường có chứa tế bào, đối chứng âm chỉ có môi trường nuôi cấy.
  • Đĩa thí nghiệm được ủ ở điều kiện tiêu chuẩn. Sau 72 giờ mỗi giếng thí nghiệm được tiếp tục ủ với 10 µL MTT (5 mg/mL) trong 4h.
  • Sau khi loại bỏ môi trường, tinh thể formaran được hòa tan bằng 100 µL DMSO 100%.

Kết quả thí nghiệm được xác định bằng giá trị OD đo ở bước song 540 nm trên máy quang phổ Biotek. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Giá trị IC50 được xác định thông qua giá trị % ức chế tế bào phát triển và phần mềm máy tính Rawdata.

% ức chế tế bào = (ODchứng (+) – ODmẫu thử)/( ODchứng (+)– ODchứng (-)) x 100%

Giá trị IC50 của mẫu được tính dựa theo đồ thị nồng độ mẫu thử (C) và phần trăm ức chế (%I).

Phương pháp đánh giá tác dụng chống oxy hóa

Ở nhiệt độ phòng, gốc tự do DPPH (2,2-diphenyl-1-picryhydrazyl) ổn định và có màu tím trong dung môi MeOH. Khi có sự có mặt của các chất chống oxy hóa, DPPH sẽ kết hợp với các chất chống oxy hóa này và làm cho dung dịch chuyển sang màu vàng làm giảm cường độ hấp thụ ánh sáng của mẫu tại bước song 517 nm.

Tiến hành đo độ hấp thụ tại bước sóng 517 nm để tính toán lượng DPPH còn lại. Thông qua đó đánh giá được khả năng chống oxy hóa của mẫu thử nghiệm so với mẫu đối chứng [7, 8].

  • Mẫu thử được pha trong dung môi MeOH thành dãy các nồng độ khác nhau.
  • Hỗn hợp phản ứng gồm: 160 µL dung dịch DPPH (nồng độ 0,24 mg/mL pha trong MeOH), 100 µL dịch thử các mẫu và 740 µL MeOH được ủ ở 250C trong 15 phút.
  • Song song với mỗi mẫu thử, tiến hành đo mẫu chứng với cùng điều kiện và thành phần gồm: 840 µL MeOH và 160 µL dung dịch DPPH (nồng độ 0,24 mg/mL trong methanol).
  • Tất cả các thí
    nghiệm được lặp lại 3 lần.

Hoạt tính quét gốc tự do DPPH được đánh giá thông qua giá trị phần trăm ức chế (%) và được tính theo công thức:

%I = 𝐴𝑐−𝐴𝑡/𝐴𝑐−𝐴0 x 100%

Trong đó:
I %: Hoạt tính chống oxy hóa;
Ac: Độ hấp thu của mẫu chứng;
At: Độ hấp thu của mẫu thử;
A0: Độ hấp thu của mẫu trắng (sử dụng methanol).

Tác dụng chống oxy hóa của dịch chiết được so sánh với chất chuẩn dương là acid ascorbic. Giá trị IC50 của mẫu được tính dựa theo đồ thị nồng độ mẫu thử (C) và phần trăm ức chế (%I).

Xử lý số liệu

Các số liệu được tổng hợp và phân tích trên máy tính bằng phần mềm Sigma Plot. Các kết quả được biểu diễn dưới dạng X ± SD. X là giá trị trung bình và SD là độ lệch chuẩn.

KẾT QUẢ

Tác dụng độc tính trên các dòng tế bào ung thư

Tác dụng độc tính trên các dòng tế bào ung thư của các phân đoạn dịch chiết lá xạ đen được thể hiện thông qua giá trị IC50 (mg/mL) ở Bảng 1.

Tác dụng độc tính trên các dòng tế bào ung thư 1

Nhận xét: Từ Bảng 1, thuốc đối chứng dương Ellipticine cho thấy tác dụng gây độc rõ rệt đối với cả ba dòng tế bào ung thư gan, phổi và vú với IC50 lần lượt là 0,35 ± 0,02; 0,45 ± 0,03 và 0,58 ± 0,05 (µg/mL). Cao chiết toàn phần EtOH chưa thể hiện tác dụng độc tính với các dòng tế bào ung thư. Phân đoạn EtOAc có tác dụng độc tính với hai dòng tế bào ung thư gan và phổi, với IC50 lần lượt là 33,7 ± 1,5 và 13,0 ± 0,5 µg/mL. Phân đoạn BuOH có khả năng gây độc nhẹ với tế bào ung thư phổi, IC50 là 64,0 ± 2,2 µg/mL.

Tác dụng chống oxy hóa

Để đánh giá tác dụng chống oxy hóa của các phân đoạn dịch chiết lá cây Xạ đen, chúng tôi tiến hành phương pháp DPPH và thu được kết quả như Bảng 2.

Tác dụng chống oxy hóa 1

Tác dụng chống oxy hóa 2

Hình 1. Đồ thị biểu diễn khả năng quét gốc tự do DPPH của acid ascorbic và các phân đoạn của cao chiết lá Xạ đen.

Nhận xét: Từ Bảng 2 và Hình 1, ta thấy phân đoạn EtOAc có tác dụng chống oxy hóa tốt nhất, IC50 là 46,9 ± 2,5 µg/mL. Cao toàn phần EtOH cũng thể hiện tác dụng chống oxy hóa cao với IC50 là 48,5 ± 2,2 µg/mL. Phân đoạn BuOH thể hiện tác dụng chống oxy hóa yếu với IC50 thu được là 113,2 ± 2,9 µg/mL. Song song với mẫu thử tiến hành tương tự với mẫu chứng là acid ascorbic thu được giá trị IC50 là 4,8 ± 0,3 µg/mL.

BÀN LUẬN

Chúng tôi tiến hành phương pháp MTT để đánh giá khả năng gây độc tế bào ung thư của các phân đoạn của dịch chiết lá Xạ đen.

  • Phân đoạn EtOAc cho tác dụng với hai dòng tế bào ung thư gan và phổi có giá trị IC50 lần lượt là 33,68 ± 1,5 µg/mL; và 13,0 ± 0,5 µg/mL.
  • Phân đoạn BuOH có tác dụng gây độc nhẹ với dòng tế bào ung thư phổi với IC50 là 64,0 ± 2,2 µg/mL.

Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu đã được thực hiện trước đó. Xian-Qing Hu có nghiên cứu dịch chiết cây xạ đen có độc tính tế bào chống lại bốn dòng tế bào ung thư người: tế bào ung thư phổi NCI – H187 với IC50 trong khoảng 14,9 ± 2,1 µg/mL đến 36,8 ± 2,1 µg/mL và ức chế tế bào ung thư đại tràng HCT116 với IC50 trong khoảng 32,9 ± 2,2 µg/mL đến 35,6 ± 2,2 µg/mL, tế bào ung thư vú BC–1 là 19,8 ± 1,8 µg/mL và tế bào ung thư gan HuH7 là 21,2 ± 1,9 µg/mL [9].

BÀN LUẬN 1

Trong báo cáo tổng quan về các thực vật thuộc họ Celastraceae của tác giả Alan C.Spivey thì các chất được tìm thấy trong dịch chiết các phần của cây xạ đen có tác dụng invitro ức chế một số dòng tế bào ung thư ở người như tế bào ung thư vòm họng, ung thử cổ tử cung, ung thư biểu mô đại tràng, ung thư gan,… [10]. Yao Haur Kou và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu đánh giá sinh học lá xạ đen cho thấy hợp chất maytenfolone-A trong lá xạ đen có độc tính tế bào chống lại ung thư gan (HEPA-2B, ED50 = 2,3 µg/mL) và ung thư biểu mô vòm họng (KB, ED50 = 3,8 µg/mL) [5].

Phương pháp quét gốc tự do DPPH là một phương pháp được sử dụng rộng rãi trong mô hình đánh giá tác dụng chống oxy hóa của các chất vì nó nhanh và đơn giản [7, 11]. Vì thế chúng tôi cũng sử dụng phương pháp DPPH để đánh giá tác dụng chống oxy hóa của các phân đoạn mẫu thử.  Chất đối chứng chúng tôi sử dụng là acid ascorbic thu được giá trị IC50 của acid ascobic là 4,84 µg/mL tương đồng với các nghiên cứu trước đây [12].  Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng cao tổng EtOH và phân đoạn EtOAc thể hiện được hoạt tính chống oxy hóa với IC50 lần lượt là 48,45 µg/mL và 46,94 µg/mL. Các thí nghiệm của các tác giả khác cũng có kết quả tương tự nghiên cứu của chúng tôi.

Tác giả Trần Đức Việt chỉ ra được phân đoạn ethylacetate có hoạt tính chống oxy hóa mạnh nhất (IC50 là 53,38 ± 0,98 µg/mL) so với các chiết xuất khác, dịch chiết nước IC50 là 108,22 ± 0,48 µg/mL, trong khi chiết xuất hexane không cho thấy bất kỳ hoạt động chống oxy hóa nào [13].

Các tác giả đến từ Đại học Quốc gia Chungnam, Hàn Quốc đã nghiên cứu sàng lọc hoạt tính chống oxy hóa của các cây thuốc tại Việt Nam. Trong đó, có kết quả chỉ ra rằng cây Xạ đen có tác dụng ức chế quét gốc tự do DPPH với IC50 là 32,3 µg/mL [8].

KẾT LUẬN

  • Nghiên cứu của chúng tôi đã đánh giá được tác dụng gây độc tế bào ung thư.
  • Phân đoạn EtOAc cho tác dụng mạnh nhất với hai dòng tế bào ung thư gan và phổi với IC50 lần lượt là 33,68 ± 1,5 µg/mL và 13,0 ± 0,5 µg/mL.
  • Phân đoạn BuOH có tác dụng yếu hơn với dòng tế bào ung thư phổi với IC50 là 64,0 ± 2,2 µg/mL.
  • Phân đoạn EtOAc cũng có tác dụng chống oxy hóa mạnh nhất với IC50 là 46,94 ± 2,54 µg/mL và phân đoạn EtOH có IC50 là 48,45 ± 2,25.

Nguồn: Bùi Thị Thanh Duyên, Đặng Kim Thu, Vũ Mạnh Hùng, Bùi Thanh Tùng (2020), Nghiên cứu tác dụng ức chế tế bào ung thư và chống oxy hóa của lá xạ đen (Celastrus hindsii Benth et Hook.), VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1, tr. 39-45.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nghien-cuu-tac-dung-uc-che-te-bao-ung-thu-va-chong-oxy-hoa-cua-la-xa-den-celastrus-hindsii-benth-et-hook.html/feed 0
Nghiên cứu chiết tách và xác định thành phần hóa học trong một số dịch chiết của lá và rễ non cây dứa dại ở Hội An https://tracuuduoclieu.vn/nghien-cuu-chiet-tach-va-xac-dinh-thanh-phan-hoa-hoc-trong-mot-so-dich-chiet-cua-la-va-re-non-cay-dua-dai-o-hoi-an.html https://tracuuduoclieu.vn/nghien-cuu-chiet-tach-va-xac-dinh-thanh-phan-hoa-hoc-trong-mot-so-dich-chiet-cua-la-va-re-non-cay-dua-dai-o-hoi-an.html#respond Mon, 19 Oct 2020 02:25:25 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?p=47243 Bằng phương pháp GC-MS cho thấy trong dịch chiết của lá cây dứa dại trong các dung môi có 24 cấu tử được xác định. Các cấu tử được định danh hầu hết là hydrocacbon, acid hữu cơ, hợp chất dị vòng, terpenes… phần lớn đều có hoạt tính chống ung thư và khả năng kháng khuẩn, kháng viêm. Cao chiết methanol của lá và rễ non cây dứa dại thể hiện hoạt tính ức chế đặc hiệu với sự phát triển của chủng vi sinh vật Gram (+) Staphylococcus aureusBacillus subtilis.

Mở đầu

Dứa dại (tên khoa học là Pandanus tectorius Sol.) là loại cây mọc khá phổ biến ở các vùng ven biển châu Á có giá trị về mặt kinh tế như sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, bảo vệ môi trường, điều trị bệnh…[2].

Mở đầu 1

Trong Đông y, rễ non cây dứa dại thường được dùng để chữa phù thũng, viêm đường tiết niệu, sỏi thận, đau đầu, mất ngủ, ăn uống kém sau sinh; và lá cây dứa dại thường được dùng để điều trị các vết loét sâu, lở loét lâu ngày, tiểu ra máu…

Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố về thành phần hóa học cũng như công dụng trong y học của cây dứa dại. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc nghiên cứu và khai thác dứa dại còn rất hạn chế.

Dứa dại có mặt gần như trên toàn bộ lãnh thổ nước ta, đặc biệt ở Hội An cây dứa dại sinh trưởng mạnh mẽ, mọc hoang rất nhiều. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu một cách đồng bộ, lâu dài để có quy hoạch khai thác và sử dụng dứa dại có hiệu quả cần được quan tâm.

Nghiên cứu thực nghiệm

Nguyên liệu

Lá và rễ non cây của cây dứa dại được thu hái ở Hội An, Quảng Nam, đem tách bỏ những phần hư hại, rửa sạch, cắt nhỏ. Sau đó tiến hành sấy nguyên liệu bằng tủ sấy ở nhiệt độ 300- 400C rồi xay nhỏ.

Phương pháp chiết

Phương pháp được sử dụng để thu dịch chiết là phương pháp chiết soxhlet. Nguyên liệu được chiết lần lượt qua các dung môi có độ phân cực khác nhau: hexane, dichloromethane, ethyl acetate, methanol.

Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố thời gian chiết đến quá trình chiết

  • Lấy 5 mẫu, mỗi mẫu 10g nguyên liệu.
  • Tiến hành chiết soxhlet với 150ml dung môi hexane ở các khoảng thời gian là 4 giờ, 6 giờ, 8 giờ, 10 giờ và 12 giờ đối với lá cây dứa dại và 8 giờ, 10 giờ, 12 giờ, 14 giờ, 16 giờ đối với rễ non cây dứa dại.
  • Dịch chiết đem cô đuổi dung môi.
  • Cân khối lượng cao thu được.
  • Tiến hành tương tự như trên với các dung môi dichloromethane và ethyl acetate.

Xác định thành phần hóa học các dịch chiết

  • Thành phần hoá học các dịch chiết hexane, dịch chiết dichloromethane và dịch chiết ethyl acetate của lá, rễ non cây dứa dại được xác định bằng hệ thống sắc ký khí khối phổ7890A/5975C, Agilent technology, Mỹ; cột tách mao quản HP – 5MS (5% Phenyl Methyl Silox): 3m x 250μm x 0,25μm
  • Các cao chiết methanol của lá và rễ non cây được thử hoạt tính kháng sinh tại phòng Hóa sinh ứng dụng, Viện Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Kết quả và thảo luận

Khảo sát ảnh hưởng của yếu tố thời gian chiết đến quá trình chiết bằng phương pháp chiết soxhlet

Đối với nguyên liệu lá dứa dại

Thời gian chiết thích hợp 10g bột lá cây dứa dại và khối lượng cao chiết thu được khi chiết với dung môi hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 8 giờ (0,771g), 10 giờ (1,421g) và 8 giờ (1,080g).

Đối với nguyên liệu rễ non cây dứa dại

Thời gian chiết thích hợp 10g rễ non cây dứa dại và khối lượng cao chiết thu được khi chiết vớidung môi hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 12 giờ (1,473g), 12 giờ (0,430g) và 14 giờ (0,662g).

Thành phần hóa học của các dịch chiết lá dứa dại trong các dung môi hữu cơ

Thành phần hóa học dịch chiết lá dứa dại trong các dung môi hữu cơ

Kết quả định danh bằng phương pháp GC-MS cho thấy trong dịch chiết lá cây dứa dại trong các dung môi hữu cơ có 24 cấu tử được định danh.

Trong đó số cấu tử được định danh của dịch chiết hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 15 cấu tử, 21 cấu tử và 17 cấu tử. Kết quả định danh bằng phương pháp GC-MS trong một số dịch chiết từ lá dứa dại được tổng hợp ở Bảng 1.

Thành phần hóa học của các dịch chiết lá dứa dại trong các dung môi hữu cơ 1 Thành phần hóa học của các dịch chiết lá dứa dại trong các dung môi hữu cơ 2

Kết quả ở Bảng 1 cho thấy:

  • Dung môi có nhiều cấu tử được định danh nhiều nhất là dichloromethane và ít nhất là hexane.
  • Dịch chiết dichloromethane và ethyl acetate có nhiều cấu tử giống nhau. Trong đó, Benzofuran,6 – ethenyl – 4,5,6,7 – tetrahydro – 3,6 –dimethyl-5- isopenyl,trans có mặt ở cả 3 dịch chiết với hàm lượng cao. Nó là chất kháng nấm và kháng oxi hóa rất tốt, đã được ứng dụng trong điều trị tăng tuần hoàn máu và ngăn ngừa tiền ung thư vú. Gamma-Elemene là chất có hoạt tính chống tăng sinh tế bào ung thư và kháng khuẩn rất cao.
  • Hai loại acid béo là n-hexadecanoic acid và 9,12,15-octadecatrienoic acid. Hai acid này có khả năng kháng ung thư rất cao và còn được sử dụng trong một số dạng sữa thành phẩm giảm béo phì. Đồng thời nó còn tăng khả năng hấp thụ các loại vitamin A,E… bảo vệ collagen trong da, giảm tính viêm sưng [1].
  • Trong thành phần dịch chiết dichloromethane có chứa Squalene, chất này gần đây gần đây được sử dụng như là một chất bổ trợ miễn dịch vắc xin, có tác dụng ngăn ngừa ung thư bằng cách loại bỏ các tế bào gây hại.
Điều này hứa hẹn tiềm năng chống ung thư của lá dứa dại rất lớn [1].

Thành phần hóa học dịch chiết rễ non cây dứa dại trong các dung môi hữu cơ

Kết quả định danh bằng phương pháp GC-MS cho thấy trong dịch chiết rễ non cây dứa dại trong các dung môi hữu cơ có 24 cấu tử được định danh. Trong đó số cấu tử được định danh của dịch chiết hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 15 cấu tử, 7 cấu tử và 19 cấu tử. Kết quả định danh bằng phương pháp GC-MS trong một số dịch chiết từ rễ non cây dứa dại được tổng hợp ở Bảng 2.

Thành phần hóa học của các dịch chiết lá dứa dại trong các dung môi hữu cơ 3

Thành phần hóa học của các dịch chiết lá dứa dại trong các dung môi hữu cơ 4

Kết quả từ Bảng 2 cho thấy

  • Dịch chiết rễ non cây dứa dại trong dung môi hexane có nhiều cấu tử được định danh nhất, trong khi đó dịch chiết hexane của lá cây dứa dại số cấu tử định danh được lại là ít nhất.
  • Tổng số cấu tử định danh được từ dịch chiết lá cũng như rễ non cây dứa dại đều là 24 cấu tử. Nhìn chung, dịch chiết từ lá và rễ non cây dứa dại trong các dung môi có nhiều cấu tử được định danh giống nhau.
  • Đáng lưu ý là trong dịch chiết hexane của rễ non cây dứa dại cấu tử Artumerone có hàm lượng cao nhất, chiếm đến 32,52%. Ar-tumerone có ý nghĩa lớn trong y học. Chất này gây ức chế sự kích hoạt thần kinh đệm, sở hữu đặc tính kháng viêm do sự phong tỏa các con đường tín hiệu quan trọng trong tiểu thần kinh đệm, tạo thành một tác nhân điều trị đầy hứa hẹn cho các triệu chứng rối loạn thần kinh khác nhau [1].

Kết quả thử hoạt tính sinh học các cao chiết methanol của lá và rễ non cây dứa dại

Kết quả khảo sát hoạt tính sinh học của cao chiết methanol được thể hiện ở Bảng 3.

Kết quả thử hoạt tính sinh học các cao chiết methanol của lá và rễ non cây dứa dại 1

Kết quả khảo sát hoạt tính sinh học của cao chiết methanol cho thấy

  • Các cao chiết methanol của lá và rễ non cây dứa dại thể hiện hoạt tính ức chế đặc hiệu với sự phát triển của chủng vi sinh vật Gram (+) Staphylococcus aureusBacillus subtilis với giá trị IC50 lần lượt là 80,0µg/ml, 26,0µg/ml đối với lá dứa dại và 88,47µg/ml, 40,73µg/ml đối với rễ non cây dứa dại.
  • Như vậy, với khả năng ức chế được các dòng vi sinh vật này thì cao chiết methanol có thể dùng để nghiên cứu điều trị các bệnh do 2 chủng vi sinh vật này gây ra như bệnh ngoài da, bệnh đường hô hấp, nhiễm trùng… phù hợp với ứng dụng chữa bệnh của rễ non và lá cây dứa dại trong Đông y.
  • Tuy nhiên, các cao chiết methanol của lá và rễ non cây dứa dại lại không thể hiện hoạt tính đối vớicác chủng vi khuẩn Gram (-) và nấm ở nồng độ IC50< 128µg/ml.

Kết luận

Nghiên cứu đã đạt được một số kết quả như sau:

– Thời gian chiết thích hợp 10g bột lá cây dứa dại và khối lượng cao chiết thu được khi chiết với dung môi hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 8 giờ (0,771g), 10 giờ (1,421g) và 8 giờ (1,080g).

– Thời gian chiết thích hợp 10g rễ non cây dứa dại và khối lượng cao chiết thu được khi chiết với dung môi hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 12 giờ (1,473g), 12 giờ (0,430g) và 14 giờ (0,662g).

– Bằng phương pháp GC-MS đã định danh được 24 cấu tử trong dịch chiết lá cây dứa dại trong các dung môi hữu cơ. Trong đó số cấu tử được định danh của dịch chiết hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 15 cấu tử, 21 cấu tử và 17 cấu tử. Trong dịch chiết rễ non cây dứa dại trong các dung môi hữu cơ có 24 cấu tử được định danh. Trong đó số cấu tử được định danh của dịch chiết hexane, dichloromethane và ethyl acetate lần lượt là 15 cấu tử, 7 cấu tử và 19 cấu tử.

– Cao chiết methanol của lá và rễ non cây dứa dại thể hiện hoạt tính ức chế đặc hiệu với sự phát triển của chủng vi sinh vật Gram (+) Staphylococcus aureus và Bacillus subtilis với giá trị IC50 lần lượt là 80,0µg/ml, 26,0µg/ml đối với lá dứa dại và 88,47µg/ml, 40,73µg/ml đối với rễ non cây dứa dại.

Các cấu tử được định trong lá và rễ non cây dứa dại hầu hết đều có hoạt tính sinh học mạnh, chống tăng sinh tế bào ung thư, kháng khuẩn, kháng viêm… Điều đó đã minh chứng một cách khoa học cho việc sử dụng cây dứa dại để chữa bệnh trong dân gian từ trước đến nay.

Nguồn: Phùng Thị Ái Hữu, Bùi Ngọc Phương Châu, Đào Hùng Cường (2016), Nghiên cứu chiết tách và xác định thành phần hóa học trong một số dịch chiết của lá và rễ non cây dứa dại ở Hội An, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6(1), tr. 5-9.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nghien-cuu-chiet-tach-va-xac-dinh-thanh-phan-hoa-hoc-trong-mot-so-dich-chiet-cua-la-va-re-non-cay-dua-dai-o-hoi-an.html/feed 0
Những thực phẩm dễ gây bệnh ung thư https://tracuuduoclieu.vn/nhung-thuc-pham-de-gay-benh-ung-thu.html https://tracuuduoclieu.vn/nhung-thuc-pham-de-gay-benh-ung-thu.html#respond Thu, 06 Dec 2018 08:22:11 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?p=54359 Bệnh ung thư đang có xu hướng gia tăng nhanh trên thế giới và ở nước ta trở thành một vấn đề lớn trong y tế cộng đồng. Có nhiều lý do giải thích về sự gia tăng của bệnh ung thư như vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm… Vấn đề dinh dưỡng cũng là một yếu tố quan trọng liên quan chặt chẽ đến sự phát sinh và phát triển của căn bệnh ung thư.

Một số dữ liệu về bệnh ung thư

Bệnh ung thư là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Trong tổng số 58 triệu người chết trên toàn thế giới năm 2005, bệnh ung thư là nguyên nhân gây tử vong cho 7,6 triệu (hay 1322 trên tổng sô) người. Các loại bệnh ung thư chính dẫn đến tỷ lệ vong chung do bệnh ung thư bao gồm:

  • Bệnh ung thư phổi khiến 1,3 triệu người chết mỗi năm.
  • Bệnh ung thư dạ dày khiến gần 1 triệu người chết mỗi năm.
  • Bệnh ung thư gan khiến 662.000 người chết mỗi năm.
  • Bệnh ung thư đại tràng khiến 655.000 người chết mỗi năm.
  • Bệnh ung thư vú khiến 502.000 người chết mỗi năm.

Một số dữ liệu về bệnh ung thư 1

Dự án phòng chống ung thư Quốc gia, mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 70.000 người chết và hơn 200.000 nghìn người mặc mới. Đó là con số đáng báo động về tình hình mắc bệnh ung thư ở nước ta.

Theo dự đoán của các chuyên gia, con số này sẽ không dừng lại ở đó mà còn gia tăng trong những năm tiếp theo. Đáng chú ý hơn, trong một công bố mới đây hồi tháng 4/2014 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về tỷ lệ chết do bệnh ung thư, 50 nước đứng đầu về tỷ lệ người chết vì ung thư và mắc bệnh ung thư được xếp vào top 1và 50 nước đứng sau được tính thuộc nhóm top 2.

==> Như vậy, Việt Nam đứng thứ 78 trong 172 quốc gia vùng lãnh thổ được xếp hạng, nên nước ta đứng top 2 thế giới. Theo đó, trong số 172 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng, Việt Nam đứng ở vị trí 78 với tỷ lệ chết vì ung thư là 110 ca/100.000 người.

==> Các quốc gia có tỷ lệ chết vì ung thư tương tự như Việt Nam gồm có Somalia, Phần Lan và Turkmenistan. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam chỉ đứng sau các nước Lào (129/100.000) và Myanmar (118/100.000) về tỉ lệ tử vong do căn bệnh này.

Các chứng bệnh ung thư thường gặp nhất trên thế giới là

  • Ở nam giới (theo trình tự số ca tử vong trên toàn cầu): ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư kết tràng, ung thư thực quản và ung thư tuyến tiền liệt.
  • Ở nữ giới (theo trình tự số ca tử vong trên toàn cầu): ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư kết tràng và ung thư cổ tử cung.

40% số ca ung thư có thể bị ngăn chặn bằng cách dùng biện pháp ăn uống khỏe mạnh, tham gia các hoạt động thể chất và không dùng thuốc lá.

Đối với bệnh ung thư trên toàn thế giới, việc dùng thuốc lá là nguyên nhân duy nhất thuộc dạng có thể ngăn ngừa được. Việc dùng thuốc lá gây ra các bệnh ung thư phổi, ung thư cổ họng, ung thư họng, ung thư tụy, ung thư bàng quang, ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư thận và các loại bệnh ung thư khác. Việc ngửi khói thuốc cũng gây ra ung thư phổi.

Một phần năm số ca ung thư trên toàn cầu có liên quan đến các căn bệnh mạn tính, hầu hết từ virus viêm gan siêu vi B HBV (gây ung thư gan), virus human papilloma HPV (gây ung thư cổ tử cung), virus Helicobacter plylori (gây ung thư dạ dày), Schistosomes (gây ung thư bàng quang), sán gan (ống dẫn mật) và virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người HIV (Ung thư da và bạch huyết).

Các chất gây ung thư có trong thực phẩm

Nitrosamin

Nitrosamin và các hợp chất N-nitroso khác là những chất gây ung thư thực nghiệm trên động vật. Những chất này thường có mặt trong thực phẩm với một lượng nhỏ. Các chất nitrit và nitrat thường có tự nhiên trong các chất bảo quản thịt, cá và các thực phẩm được chế biến, trong dưa cà khú hỏng. Tiêu thụ nhiều thức ăn có chứa nitrit và nitrat có thể gây ra ung thư thực quản, dạ dày.

  • Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loại thực phẩm ướp muối, hay ngâm muối như cá muối, có hàm lượng nitrosamin cao. Các nước thuộc khu vực Đông Nam Á thường tiêu thụ loại thực phẩm này có liên quan đến sinh bệnh ung thư vòm mũi họng.
  • Các nhà khoa học Nhật Bản chỉ ra việc tiêu thụ nước mắm, chứa một hàm lượng nitrosamin cao, liên quan đến ung thư dạ dày.

Những nhà khoa học nước ta đang nghiên cứu loại thực phẩm dưa muối, cà muối, đặc biệt là dưa muối bị khú có hàm lượng nitrosamine cao, có thể có liên quan đến ung thư ngày càng tăng ở nước ta.

Nitrosamin 1

Dưa muối bị khú có hàm lượng nitrosamine cao

Aflatoxin

Aflatoxin sinh ra từ nấm mốc Aspergillus flavus. Đây là một chất gây ra bệnh ung thư gan, bệnh phổ biến ở các nước nhiệt đới. Loại nấm mốc này thường có trong các ngũ cốc bị mốc hoặc là lạc mốc, việc tiêu thụ các thực phẩm này là một nguyên nhân gây bệnh ung thư gan.

Các nhà khoa học phương Tây cho thấy, sử dụng một số phẩm nhuộm thực phẩm có thể gây ra ung thư như chất paradimethyl amino benzen dùng để nhuộm bơ thành “bơ vàng” có khả năng gây ung thư gan.

Tại các nước này sử dụng các phẩm nhuộm thức ăn cũng như các chất phụ gia được kiểm duyệt rất nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn thực phẩm. Việc sử dụng phẩm màu công nghiệp trong chế biến thức ăn ở nước ta còn chưa được quản lý nghiêm ngặt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng và đây cũng là một trong những tác nhân gây ung thư.

==> Không mua thức ăn có màu sắc sặc sỡ hoặc nghi ngờ có sử dụng phẩm màu không cho phép. Nên dùng màu sắc tự nhiên trong chế biến thức ăn như màu đỏ của cà chua, gấc; màu vàng của nghệ.

Aflatoxin 1

Nấm mốc Aspergillus flavus thường có trong các ngũ cốc bị mốc hoặc là lạc mốc

Thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật

Nhiều nghiên cứu khác đã chỉ ra các thực phẩm có chứa dư lượng, tàn tích của các thuốc trừ sâu, không chỉ có thể gây ra ngộ độc cấp tính mà còn khả năng gây ung thư. Do vậy, vấn đề an toàn thực phẩm, tiêu thụ rau sạch hiện nay đang được xã hội quan tâm.

Cách nấu nướng và bảo quản thực phẩm: Một số cách nấu thức ăn và bảo quản thực phẩm có thể sẽ tạo ra chất gây ung thư.
Những thức ăn hun khói có thể bị nhiễm benzopyren, một chất gây ung thư thực nghiệm. Việc nướng trực tiếp thịt ở nhiệt độ cao có thể tạo ra một số sản phẩm có khả năng đột biến gen như dioxin, hydro-cacbon thơm đa vòng…

Chất béo và thịt

Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy có mối liên quan giữa bệnh ung thư đại trực tràng với chế độ ăn nhiều mỡ, thịt động vật. Chế độ ăn nhiều mỡ, thịt gây ung thư qua cơ chế làm tiết nhiều axit mật, chất ức chế quá trình biệt hóa của các tế bào niêm mạc ruột.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu mối liên quan chặt chẽ tiêu thụ chất béo với ung thư vú. Tỷ lệ tử vong do mắc ung thư vú tăng theo mức tiêu thụ mỡ.

Chế độ ăn dinh dưỡng, khỏe mạnh

Trong hoa quả và rau xanh chứa nhiều vitamin và chất xơ. Các chất xơ làm hạn chế sinh ung thư do chúng thúc đẩy nhanh lưu thông ống tiêu hóa, làm giảm thời gian tiếp xúc của các chất gây ung thư với niêm mạc ruột, mặt khác, bản thân chất xơ có thể gắn và cố định các chất gây ung thư để bài tiết theo phân ra ngoài cơ thể.

  • Các loại vitamin A, C, E làm giảm nguy cơ ung thư biểu mô, ung thư dạ dày, ung thư thực quản, ung thư phổi… thông qua quá trình ôxy hóa, chống đột biến gen.
  • Đặc biệt, các loại rau thơm và rau gia vị với các thành phần chống ôxy hóa (caroten, vitamin C…) và các tinh dầu không chỉ kích thích tiêu hóa mà còn hạn chế và ngăn cản sự phát triển của tế bào ung thư.

Chế độ ăn dinh dưỡng, khỏe mạnh 1

Việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống nhiễm hóa chất gây ung thư trong thức ăn; thực hiện chế độ ăn cân đối hợp lý, tránh thái quá mỡ, thịt động vật, đồng thời tăng cường tiêu thụ trái cây và rau xanh không chỉ là biện pháp dự phòng bệnh ung thư mà còn có thể phòng chống được nhiều bệnh khác.

Theo: TS. Nguyễn Văn Hiếu (Bộ môn Ung thư – Trường ĐH Y Hà Nội)

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/nhung-thuc-pham-de-gay-benh-ung-thu.html/feed 0