Mô tả
- Cây nhỏ cao 1 – 1.5 m. Thân nhẵn có những nốt sần nhỏ, màu lục sau xám. Cành non dẹt, có khía dọc sau tròn, màu xám. Lá mọc vòng 3, đôi khi 4 -5, khi non có khi mọc đối , phiến lá hình mác, gốc thuôn, đầu nhọn, cuống ngắn, dài 6 – 11 cm, rộng 1.5 – 3 cm.
- Hoa nhỏ, màu trắng, mọc ở gần thân thành xim dạng tán kép, dài 4 – 7 cm; dài hình chuông, tràng hình ống thường hơi cong; nhị 5 đính ở họng tràng; bầu có 2 ô.
- Quả hạch đôi, hình trứng, khi chín màu đỏ tươi. Toàn cây có nhựa mủ.
- Mùa hoa: tháng 4 – 6 , mùa quả tháng 7 – 10 . Ở đồng bằng có khi nở hoa quanh năm.
- Tránh nhầm với cây ba chạc (Euodia lepta (Spreng.) Merr. – Rutaceae) nhiều nơi gọi là ba chạc tám ghẻ.
Phân bố sinh thái
- Ba gạc lá vòng là một trong những loài ba gạc mọc tự nhiên được nhắc đến nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên kết quả điều tra của viện dược liệu từ 1961 đến nay có thể khẳng định đây là một cây thuốc tương đối hiếm ở nước ta. Các điểm phân bố đã được xác định lại thuộc các tỉnh Lạng Sơn (huyện Văn Quan), Nghệ An (Kỳ Sơn), Cao Bằng, Phú Thọ. Trước đây cây được trồng làm mẫu ở vườn thuốc Trạm nghiên cứu dược liệu Nam Hà. Hiện nay còn trồng lưu giữ tại trạm nghiên cứu cây thuốc Tam Đảo và Sa Pa (Viện dược liệu)
- Ba gạc lá vòng là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng khi còn nhỏ. Trong tự nhiên, cây thường mọc lẫn với một vài loại cây bụi khác: ở bờ nương, rẫy, ven đường đi. Rụng lá mùa đông, cây trồng từ hạt sau hai năm cao khoảng 0.8 m và bắt đầu có hoa lứa đầu tiên. Càng về sau, hoa quả càng nhiều. Đặc biệt quả chín của năm trước có thể tồn tại đến đầu mùa hoa quả năm sau. Tỉ lệ nẩy mầm cao nhất của hạt khoảng 75 %.
- Vì trữ lượng ít, ba gạc lá vòng đã được vào “Sách đỏ Việt Nam” để bảo vệ.
Bộ phận dùng
Rễ sấy khô hay phơi khô.
Thành phần hóa học
- Vỏ rễ ba gạc lá vòng chứa trung bình 0.90 – 2.29 % alkaloid toàn phần, trong đó có reserpine, ajmalicin, serpentin.
- Lá chứa 0.72 – 1.69 % alcaloid toàn phần
- Ba gạc lá vòng còn chứa spegatrin, verticilatin.
Tác dụng dược lý
Ở Việt Nam dạng nước sắc của ba gạc lá vòng đã được chứng minh có những tác dụng sau đây:
- Trên chó thí nghiệm với liều 0.5kg/ kg có tác dụng hạ áp rõ rệt. Trên tim ếch cô lập và tại chỗ có tác dụng làm chậm nhịp tim. Còn có tác dụng an thần gây ngủ.
- Theo tài liệu nước ngoài (Trung Quốc) dịch chiết nước cồn của lá và rễ ba gạc lá vòng với liều 100 – 150 mg/kg trên chó gây mê có tác dụng hạ huyết áp, kéo dài khoảng 1 giờ. Nước sắc vỏ rễ bằng đường cho thuốc vào dạ dày trên chó gây mê tác dụng hạ huyết áp xuất hiện sau khi dùng thuốc 30p. phần alkaloid tan trong nước, trên chó và mèo thí nghiệm với liều 1 – 3mg/ kg tiêm tĩnh mạch có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài; trên chó gây cao huyết áp thực nghiệm thuốc cũng có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Chất Rauvolfin A chiết từ ba gạc lá vòng với liều lượng 2mg/kg trên mèo gây mê có tác dụng hạ huyết áp, đối kháng với tác dụng tang huyết áp của adrenalin, tác dụng an thần yếu. Cũng như các loài ba gạc khác, tác dụng hạ huyết áp của các chế phẩm từ ba gạc lá vòng thay đổi theo từng địa phương cây mọc. LD30 được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường uống của ba gạc lá vòng mọc ở Trung Quốc là 0.69 g/ kg (ở Quảng Tây) và 0.82 g/ kg (ở Hải Nam)
- Alcaloid spegatrin chiết từ ba gạc lá vòng có tác dụng ức chế sự phân tiết adrenalin, còn chất verticilltalin có tác dụng phong bế hạch. Việc sử dụng trên làm lâm sàng chứng tỏ verticilltalin có tác dụng điều trị tốt đối với tăng huyết áp lại ít có tác dụng phụ.
Công dụng
- Ở Việt Nam ba gạc lá vòng được dùng điều trị tăng huyết áp dưới dạng viên, cao lỏng. Cao lỏng của rễ lá ba gạc lá vòng chứa 1.5% alkaloid toàn phần, liều trung bình mỗi ngày 30-60 giọt.
- Ở Trung Quốc , ba gạc lá vòng cũng được điều trị tăng huyết áp có hiệu quả. Lá tươi giã nát đắp tại chỗ vết thương rắn cắn.
- Ở Đài Loan, nước sắc rễ ba gạc lá vòng được dùng làm thuốc diệt côn trùng.