Hình ảnh cây bạch hoa xà
Mô tả cây
- Cây thân thảo cao 60-70 cm, có thân rễ, thân có đốt và nhẵn, lá mọc so le, hình trứng đầu nhọn, phía cuống hơi như ôm vào thân, mép nguyên, không có lông, nhưng mặt dưới hơi trắng nhạt.
- Thân hóa gỗ ít hoặc nhiều khúc khuỷu có khía dọc rất mảnh và có đốt rõ.
- Lá mọc so le, hình trứng hoặc bầu dục thuôn, gốc gần bằng, đầu nhọn; cuống lá như ôm vào thân.
- Cụm hoa mọc thành chùm bông ở ngọn gồm nhiều hoa màu trắng, tràng hoa hình đinh, nhị 5 chỉ nhị hình chỉ, bao phấn thuôn màu vàng .
- Quả thường lép.
- Mùa ra quả gần như quanh năm, nhưng chủ yếu vào tháng 5-6.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Bạch hoa xà mọc khắp nơi ở Việt nam: Nam Bắc, miền núi, miền đồng bằng đều có. Còn thấy ở Ấn Độ, Malayxia, nam Trung Quốc, Nhật Bản, Indonexia, châu Phi.
- Thường người ta dùng rễ tươi, để lâu kém tác dụng. Rễ đào về có đường kính 2-5cm, khi khô có màu đỏ nhạt, mép ngoài sẫm, có những rãnh dọc, phần trong màu nâu, vị hắc và buồn nôn. Tính chất ăn da và làm phồng da.
- Có nơi dùng cả lá tươi để làm thuốc
Thành phần hoá học
- Trong rễ cây Bạch hoa xà có một chất gọi là Plumbagin hay plumbagon hoặc ophloxlin Plumbagin có công thức mytyl -2-juglon hay metyl-2-hyddroxy-5-naphtoquinon-1-4 Plumbagin hắc và gây xung huyết da.
- Dung dịch plumbagin trong nước tiêm vào bụng chụôt trắng có chửa sẽ gây chết thai và rối loạn buồng trứng (Japanese J. Obstetr.andgynecol.16 (3), 1933:254-257)
- Tại Ấn độ, người ta dùng plumbagin chiết từ rễ Bạch hoa xà để điều trị khối u ung thư thực nghiệm trên chuột làm giảm 70%
Công dụng và liều dùng
- Cây Bạch hoa xà mới chỉ thấy được dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc chữa những bệnh ngoài da, những vết loét, vết thương. Thường dùng rễ hay lá giã nhỏ với cơm cho thành một thứ bột nhão, đắp lên những nơi sưng đau. Có nơi sắc rễ lấy nước bôi ghẻ, lá Bạch hoa xà giã nát đắp lên đầu chốc lở đã rửa sạch hễ thấy nóng thì bỏ ra. Do nhựa của cây Bạch hoa xà làm chậm sự thành sẹo cho nên một số dân châu Phi đã dùng nhựa cây này bôi lên các hình vẽ trên người bằng dao cạo để cho hình nổi lên, nó có tác dụng tăng sinh trưởng những tổ chức đã bị rách.
- Tại một số nước châu Phi, nhân dân dùng bột rễ cây này trộn với chất nhầy của một loại dâm bụt (Hibiscus esculentus) có nơi gọi là cây mướp tây (có trồng ở Việt Nam có quả ăn được) để đắp lên các vết hủi, sau đó người ta đắp lên đó một loại lá khô của một cây có nhựa chưa xác định được tên khoa học, nhưng dân Negeria (châu Phi) đã gọi tên là cây Niecca.
- Tại Ấn Độ và Nhât Bản, người ta dùng rễ cây này làm thuốc sẩy thai: cho uống bột rễ này hay tán một ít bột cho vào khoang tử cung, thai sẽ tự ra do bị kích thích, nhưng hay gây ra viêm tử cung có khi chết người.
- Cần chú ý nghiên cứu thêm
Chú thích:
- Ở nước ta còn một cây nữa mang tên cây đuôi công hay xích hoa xà (Plumbago rosea L.-Plumbago coccinea Boiss, hay Thela coccinea Lour) cùng họ. cây nhỏ, có thân cứng trên có rãnh dọc, nhẵn. Lá hình mác, hơi tù ở đầu, phía dứới ôm vào thân, dài 10cm, rộng 4cm hay hơn. Hoa màu đỏ mọc thành bông dài ở đầu cành, trên có khi phân nhánh, ống tràng dài gấp 4 lần ống đài. Cũng mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta, nhân dân sử dụng cũng như cây Bạch hoa xà.
- Tại Ấn Độ, người ta dùng bột rễ cây này trộn với dầu để thoa bóp những nơi bị tê thấp và tê liệt, còn dùng chữa ung thư, hủi, và một số bệnh ngoài da khác (Revue botanique qppliquee et Agriculture colonial 18-1938:272)Tại Bắc Lệ (18-4-1964), người ta dùng chữa đau gân, đau xương, làm ra thai. Thường dùng lá, nếu đau xương đào lấy rễ. Lá xào ăn được, ăn nhiều thì tẩy. Nấu canh với dấm hay chanh. Uống độ một bát canh, sau 1 giờ thì đi ngoài, người không mệt; nếu muốn thôi đi ngoài, vò lá với nước lạnh uống ½ chén. Uống lạnh.