Mô tả
- Thân ngắn. Đầu có hai mắt to, lồi, mõm ngắn tù, miệng rộng, bụng phình to.
- Da khô, sần sùi với những mụn to nhỏ xen kẽ, hai tuyến lớn ở trên mắt; trong mụn và tuyến có chất nhựa độc. Hai chân sau dài và chắc hơn hai chân trước.
- Lưng màu vàng xám hoặc xám đen, các mụn cóc thường sẫm màu. Cóc đực nhỏ hơn cóc cái.
- Loài cóc rừng (Bufo galeatus Gunther) sống ở miền núi cũng được dùng.
Phân bố, sinh thái
Cóc là loài lưỡng thê, có thể sống được ở trên cạn và dưới nước, phân bố chủ yếu ở châu Á. Ở Việt Nam, cóc sống khắp nơi, những chỗ ẩm ướt như ruộng, nương, hốc đá, khe tường… Sau những trận mưa, cóc nhảy ra khỏi hang rất nhiều, đi kiếm ăn từ xẩm tối. Thức ăn của cóc gồm châu chấu, gián, mối, kiến, giun đất, ếch nhái, ruồi, nhặng, muỗi.
Cóc đẻ vào tháng 11 – 6, trứng nổi nổi thành nòng nọc, sống trong nước, rồi rụng đuôi, mọc chân thành cóc. Cóc rất có ích cho nhà nông. Thường bắt cóc vào mùa hè.
Bộ phận dùng
Thịt cóc có tên thuốc trong y học cổ truyền là thiềm thừ, phơi hay sấy khô là can thiềm;
Nhựa cóc là thiềm tô, có tên khoa học là Secretio Bufonis.
Cách chế biến thịt cóc:
Chọn những con cóc to, da vàng hoặc đen, loại bỏ những con có mắt đỏ (theo kinh nghiệm nhân dân). Dùng dao sắc cắt bỏ đầu (từ hai mắt trở lên), rạch một đường dọc theo sống lưng, lột hết da (cần hết sức thận trọng, tránh làm vỡ các tuyến nhựa độc), rồi mổ bụng, cắt bỏ ruột, gan, phổi và trứng, chặt bỏ bốn bàn chân. Rửa nước nhiều lần cho thật sạch và lần cuối cùng rửa bằng nước nóng có pha muối với tỷ lệ 0,9%. Sấy khô.
Cách lấy nhựa cóc:
Cho cóc vào giỏ tre, dội nước nhiều lần để rửa sạch đất cát bám trên mình cóc. Đợi cho da khô, bắt cóc giữ chặt, dùng nhíp để lên những tuyến nhựa, nhất là tuyến ở trên mắt, hoặc dùng que tre kích thích vào tuyến nhựa. Cũng có thể buộc cóc nằm sấp trên môt mảnh ván, dây uét vào lưng, đầu cho các tuyến mủ chướng lên. Dùng miếng mo cau nhóc vào các tuyến. Nhựa sẽ chảy ra, hứng vào đĩa sứ hoặc cho vào lọ nhỏ, phơi hay sấy khô. Người ta tính mỗi con cóc 1kg nhựa cóc, phải dùng đến 20.000 – 30.000 con cóc. Nhựa cóc là một chất nhầy màu trắng như sữa, để khô thì đóng vảy màu nâu vàng.
Ở Việt Nam, việc thu hoạch nhựa cóc chưa được tổ chức quy mô, mà lẻ tẻ trong nhân dân ở một số ít ngưồn tư liệu y dược sử dụng.
Cóc không độc, nhưng cóc cái và toàn bộ gan, ruột, trứng đều rất độc vì chứa nhựa cóc. Nhựa cóc dính vào nội tạng nếu liên tục sẽ gây rộp da, rối loạn tiêu hóa; nếu ăn nhầm dễ bị ngộ độc dẫn tới chết. Nếu nhựa độc dính theo dao giang tay để bảo vệ da. Nếu để nhựa cóc dây vào mắt, nhựa sẽ làm hỏng mắt và có thể gây tổn thương. Nhựa cóc dính vào thịt dễ làm cho người ăn thịt cóc bị nhiễm độc dẫn đến thiệt mạng. Nguy hiểm hơn là đối với những bàn tay bị xây xát, thương tổn, nhựa cóc dính vào sẽ chà chất độc ngấm thẳng vào máu, tác dụng trực tiếp và rất nhanh (ăn cóc, trứng cóc cũng đã gây độc cho một số người ăn nhầm phải).
Dược điển Đông y Trung Quốc phân biệt và xác định thiềm tô như sau: Do cách gia công khác nhau mà thiềm tô có hình khối tròn dẹt, hình bánh, hình phiến hoặc hình quăn có. Mặt ngoài sáng bóng, đỏ thẫm không phẳng mà nhăn van, màu vàng nhạt, đỏ tía hay đen nâu. Thứ kết thành khối hay thành hình thì cứng chắc, khó bẻ gãy. Mặt bẻ cắt ngang mà màu chè, chất quả như keo, có ánh. Thứ hình phiến thì giòn, dễ bẻ gãy, màu nâu đỏ, nâu trong suốt, hơi có mùi tanh, ngửi làm hắt hơi, vị cay, gặp nước sẽ nứt bọt và loang ra thành dịch sữa màu trắng.
Thiềm tô còn được bảo chế sao tẩm với rượu trắng để được tiêu thiềm tô hoặc sữa bò tươi để được nhũ thiềm tô.
Thành phần hóa học
Thịt cóc chứa 53,3% protid, trong đó, nhiều acid amin có giá trị như histidin, tyrosin, methionin, leucin, phenylalanin, cystein… 12,6% lipid, các vitamin B₁, B₂, các muối sắt, phosphor, calci. So với các loại thịt cao cấp như bò, lợn, gà thì thành phần dinh dưỡng của thịt cóc không kém.
Nhựa cóc chứa cholesterol, acid ascorbic và những chất rất độc như bufotoxin, bufotalin, bufotenin, bufoemodin và nhiều chất khác. Các nhà nghiên cứu Liên Xô trước đây đã tách được chất cynobufagin từ nhựa cóc.
Tính vị, công năng
Thịt cóc có vị mặn, ngọt, tính mát, có tác dụng bổ bổ sức khoẻ, nhất là đối với trẻ em, tiêu độc.
Nhựa cóc có vị ngọt, cay, tính ấm, có độc, vào kinh vị, có tác dụng bổ dưỡng, chống đinh sang, co giật, thanh nhiệt.
Công dụng
Thịt cóc ăn ngon và đậm hơn thịt ếch, lại có giá trị dinh dưỡng rất cao, là một vị thuốc bổ rất tốt cho trẻ em: chữa kém ăn, gầy còm, cam nhôm, cam mắt, bụng ỏng, đi tướt, chậm lớn, chậm biết đi. Dạng dùng thông thường là món ăn; vị thuốc như thịt cóc hấp nồi rim, làm nước hoặc hầm nhừ làm chả, tráng trứng ăn với cơm hằng ngày. Có nơi, người ta chỉ dùng da cóc.
Dùng làm thuốc, lấy thịt cóc đã chế biến đúng quy cách, chặt nhỏ, sấy khô giòn rồi tán bột. Trứng gà đã luộc chín, bóc lấy lòng đỏ, sấy khô, tán bột. Ba, bốn miếng vỏ quả chuối ngự cũng phơi khô, tán bột. Trộn đều ba thứ bột, luyện với mật làm thành viên. Mỗi viên gồm 1g bột cóc, 0,2g lòng đỏ trứng và 1,4g vỏ chuối. Trẻ em từ 1 đến 3 tuổi, mỗi ngày uống 3 – 9 viên chia làm 3 lần; từ 4 tuổi trở lên, tăng dần liều lượng cho thích hợp (Kinh nghiệm của ông Nguyễn Trọng Cầu – Viện Y học cổ truyền).
Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng cóc bọc trong đất sét, nung cho cháy khô, lấy ra, bỏ đất, tán cóc thành bột, lấy 10g trộn với hoàng liên (10g), thanh đại (4g), xạ hương (1g) đã tán thành bột, xát vào chỗ lở loét chữa cam râu má. Hoặc lấy 2 con cóc đã bỏ da và phủ tạng, thái nhỏ cùng với 4g sâm nhân hoặc hồ tiêu, nhồi vào dạ dày lợn, nấu chín, rồi bỏ cóc đi, ăn hết trong ngày để chữa thuỷ thũng.
Thuốc cam tằm mà của cụ Lê Bá Cơ – Thanh Hoài là gồm cóc vàng (1 con), phèn chua sống (20g). Lấy men chua đập nát cho vào bụng cóc (đã chế biến bỏ da và các bộ phận bên trong), đựng đặt trên vôi giã nhỏ và nấu bọc kín cóc một lớp dày 3 – 5cm. Đem vào lò than, nướng trong 1 giờ 30 phút, đến khi đặt lên cóc thấy vỡ mềm thì lấy ra. Để nguội, đập bỏ lớp vôi, lấy phần tán nhỏ, rây bột, dùng dần làm thuốc. Khi dùng, lấy bột thuốc xát vào răng lợi bị kết sạn đã rửa sạch bằng nước muối.
Có thể chế cao cóc chữa mụn nhọt với các dược liệu khác theo cách làm sau: Cóc vàng (1 con) bọc đất, đốt tồn tính, rồi lấy ra, tán bột. Củ ráy dài (100g), củ nghệ vàng (50g), cao sắn vò, thái mỏng, cho vào dầu vừng (500ml), đun sôi đều khi các dược liệu quắt lại thì vớt ra, tiếp tục cho sáp ong (30g) khuấy cho tan. Sau cùng, cho bột cóc và nhựa thông (vừa đủ) để được một khối cao sền sệt. Để nguội, phết thuốc lên từng miếng giấy nhỏ. Khi dùng, hơ nóng thuốc, đắp vào chỗ sưng đau.
Để chữa mẩn ngứa, ở một số địa phương, người ta nấu cháo thịt cóc và thịt rắn nước ăn hằng ngày.
Nhựa cóc được dùng để chữa một số bệnh hiểm nghèo. Thông thường có biệt dược “Lục thần hoàn” chứa sốt cao, trúng độc, mê man, co giật. Thuốc gồm nhựa cóc (1g), xạ hương (1g), ngưu hoàng (1,5g), hùng hoàng (1g), trân châu (1,5g), băng phiến (1,5g) và được bào chế theo cách sau: Nhựa cóc ngâm với ít rượu và tán nhỏ, rây đều với các dược liệu đã tán thành bột mịn để được một khối đồng nhất, rồi làm viên nhỏ bằng hai cái bao ngựa bằng bồ hóng bếp (hạch thảo sương). Ngày uống 1 – 2 lần, mỗi lần 5 – 10 viên.
Phụ nữ có thai không được dùng nhựa cóc.
Theo tài liệu nước ngoài, chất cynobyfagin, chiết được từ nhựa cóc, có tác dụng lên tim mạch tốt hơn digitalin (hoạt chất của cây dương địa hoàng – Digitalis purpurea L.) vì không tích lũy. Nó còn có khả năng giải đọc do barbituric, giảm biến chứng sốc trong trường hợp bị bỏng nặng hoặc có tác dụng điều trị u ác tính.
Mật cóc ít được sử dụng. Nhưng để chữa mụn nhọt, đôi khi người ta lấy mật cóc trộn với cao mềm bồ cu vẽ và nghệ vàng làm thành cao dán mà dùng. Kết quả khỏi bệnh đạt hơn 50%.
Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam