Mô tả
- Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chuỳ dài 8 – 10 cm, nhẵn hoặc có lông thưa, hoa nhiều màu trắng thơm; lá bắc 1 cái ở gốc cuống hoa và 2 cái đối nhau ở ngọn, sớm rụng, đài nhẵn hoặc có lông mặt ngoài, ống dài 1 – 1,5 mm, 5 răng hình ellip, mép có lông mi, tràng dài 4 mm, nhẵn, 5 cánh hình trứng rộng, rời nhau; nhị khoảng 45 rời nhau, chỉ nhị hình chỉ, màu trắng, bao phấn màu vàng; bầu 2 ô, mỗi ô có 2 noãn.
- Quả hình cầu, dài 5 mm, khi chín màu lam, khi khô chuyển màu đen, nhẵn hoặc có lông; hạt 1 – 2.
- Mùa ra hoa: tháng 4 – 6.
Phân bố, sinh thái
Họ Symphocaceae ở Việt Nam chỉ có một chi Symphocos Jacq. với tổng số 38 loài. Loài dung lá táo mới chỉ ghi nhận được về phân bố ở Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn, Ninh Bình và ở tỉnh Thừa Thiên – Huế. Trên thế giới, loài này có ở Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan), Mianma và Nhật Bản.
Dung lá táo là cây ưa sáng, có thể hơi chịu hạn; thường mọc ở đồi cây bụi, ven rừng và rừng thử sinh, đôi khi thấy còn sót lại ở bờ nương rẫy. Độ cao phân bố có thể đến 1300m. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm. Tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt.
Bộ phận dùng
Rễ, lá và cành.
Tác dụng dược lý
Tác dụng gây độc tế bào của saponin triterpenoid từ rễ cây dung lá táo:
Năm 2003, một số tác giả (Li XH et al., 2003) đã phân lập được từ rễ cây dung lá táo bốn hợp chất triterpenoid. Kết quả thử tác dụng độc tế bào cho thấy có tác dụng độc tế bào có ý nghĩa trên các dòng tế bào B16 và BGC – 823. Tác dụng độc tế bào gợi mở cho việc nghiên cứu tác dụng chống u và tác dụng chống ung thư.
Năm 2004 (Tang M et al., 2004), Tang và cộng sự chiết được sáu saponin triterpenoid mới, gọi là symphocososid A (1); B (2); C (3); D (4); E (5) và F (6). Kết quả thử nghiệm độc tế bào trên một số dòng tế bào cho thấy, các hợp chất (1), (3) và (6) có tác dụng độc tế bào trên một hoặc nhiều dòng tế bào; đặc biệt là một dẫn chất của chất (1) (sympiocososid A) được ký hiệu là 1d có tác dụng độc tế bào chọn lọc trên tế bào KB (tế bào ung thu, biểu mổ mũi, vòm họng của người) mà ít độc trà tế bào bình thường.
Năm 2005, Fu GM và cộng sự đã phân vào thêm được năm saponin triterpenoid mới gọi là symphocososid G, H, I, J, K. Thử nghiệm độc tế bào trên các dòng tế bào ung thư của người gom KB, HCT – 8 (dòng tế bào ung thư hội manh trà của người), Bel – 7402 (một dòng tế bào ung thu gan người), BGC – 823 và A549 (một dòng tế bào thư phổi người), thấy tất cả các symplocososid đều có tác nghĩa với giá trị ICso (nồng độ ức chế 50% sự phá triển của tế bào) từ 0,82 micromol đến 5,09 micromol. (Fu GM et al., 2005).
Tính vị, công năng
Rễ dung lá táo vị hơi đắng, ngọt nhạt, tính mát có công năng thanh nhiệt, giải cảm sốt, long đờm, khỏi phiền khát.
- Sách “Quảng Tây Trung thảo dược” và sách “Nam Ninh Thị dược vật chí” đều ghi: Vị đắng tính hàn, có tiểu độc. Sách “Toàn quốc Trung thảo dược hội biên” ghi: Vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có công năng thanh nhiệt, lợi thấp, hoá đàm, trị sốt rét [TDTH, 1993, I: 2161].
Công dụng
Rễ dung lá táo được dùng chữa cảm sốt, sốt rét, người nóng như lửa, miệng khát, người bứt rứt, đau lưng, mỏi gối, bỏng, lở loét.
- Liều dùng 6 – 9g rễ khô, nếu rễ tươi 15 – 20g sắc lấy nước uống.
- Dùng ngoài, lấy rễ khô hoặc tươi, sắc lấy nước, rửa lên chỗ bị bỏng, đụng dập, lở loét.
Ở Trung Quốc, còn dùng lá hoặc quả tươi, giã nát đắp lên chỗ lở loét, chấn thương, đụng dập [TDTH, 1993, I: 2160 – 1]. Vỏ rễ, vỏ thân hoặc lá tươi, giã nát, bôi vào các chỗ viêm loét ở miệng, mũi, lợi chân răng [Perry et al., 1980:401].