Mô tả cây
- Cây gỗ lớn, cao tới 25m, lúc nhỏ phụ sinh, có rễ khí sinh treo từ nhánh cao.
- Lá dày láng, dài 6-20cm, chóp thường tròn, gốc có ba gân; lá kèm có lông trắng lúc non; cuống lá 1,5-3,5cm.
- Quả dạng sung ở nách lá, không cuống, vàng có sọc đỏ, cỡ 1cm.
- Mùa hoa quả : tháng 5-7.
Phân bố, sinh thái
- Loài của Ấn Độ, Lào, Campuchia, Xri Lanka, Malaixia, Inđônêxia, Ôxtrâylia. Ở nước ta cây thường gặp ở vùng có thủy triều, cũng gặp mọc dựa bờ rạch. Cây được trồng ở Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Ðà Nẵng, Sông Bé, Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Ở Việt Nam, gừa thường thấy trong các quần hệ rừng núi đá, rừng thứ sinh, nhất là ở vùng biển và đảo. Cây cũng được trồng xung quanh làng bản, nơi công cộng để lấy bóng mát. Khi còn nhỏ, cây có thể ở dạng sống phụ sinh (trên đá hay cây gỗ khác). Sau lớn dần, bóp nghẹt cây giá thể trở thành cây gỗ lớn với nhiều rễ khí sinh buông xuống từ cành. Gừa ra hoa quả nhiều hàng năm. Quả chín là thức ăn ưa thích của nhiều loại chim rừng. Do đó, hạt được phát tán dễ dàng đi khắp nơi. Hạt rơi vào các kẽ đá, hốc cây đều có khả năng nảy mầm. Gừa là cây có thể sống hàng trăm năm. Gỗ nhẹ và mềm nên ít được sử dụng.
Bộ phận dùng
Rễ khí sinh và . Thu hái rễ và lá quanh năm, rửa sạch và phơi khô.
Tính vị, công năng
Gừa có vị hơi đắng và se, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, kháng sinh, làm ra mồ hôi và lợi tiểu.
Công dụng
Rễ khí sinh dùng chữa cảm mạo, sốt cao, viêm amygdal, đau nhức khớp xương, đòn ngã tổn thương. Dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Lá dùng chữa cúm, viêm khí quản ho gà, sốt rét, viêm ruột cấp, lỵ. Ngày dùng 5-12g, dạng thuốc sắc.
Ðơn thuốc:
- Dự phòng cúm: Lá Gừa, lá Bạch đàn, đều 30g, sắc uống.
- Viêm ruột cấp, lỵ: Lá Gừa tươi 500g sắc nước, chia làm 2 lần uống trong ngày.
- Viêm hạnh nhân: Rễ Gừa 180g, nấu với nước và một bát giấm, dùng súc miệng nhiều lần trong ngày.
- Viêm khí quản mạn: Lá Gừa tươi 75g, vỏ quýt 18g sắc nước chia 3 lần uống sáng, trưa, chiều. Liên tục trong 10 ngày.