Mục lục
Mô tả
- Cây thảo, cao 1,5 – 2m. Thân rễ thuôn, có đốt, khía rãnh, ruột màu vàng cam.
- Lá không cuống mọc thành hai dãy cách nhau, hình dải, dài 20 – 40 cm, rộng 2 – 3,5 cm, gốc tù, đầu thuôn nhọn, mặt trên nhẵn màu lục sẫm, mặt dưới nhạt có lông nhung, bẹ lá có lông.
- Từ thân rễ, mọc ra một cán hoa dài 20 – 40 cm, có bẹ dạng vảy và lông mềm bao quanh; cụm hoa dạng nón thuôn, dài 10 – 15 cm, rộng 4 – 6 cm, bao bọc bởi những lá bắc rộng màu gỉ sắt, mép lá bắc mỏng và có màu nhạt, có lông; hoa có lá đài màu đỏ; cánh hoa màu vàng, bầu có lông.
- Quả nang tròn, cao 1,3 cm.
- Mùa hoa quả: tháng 8 – 10.
Phân bố, sinh thái
Chi Zingiber Boehm. trên thế giới có khoảng 150 loài, phân bố rải rác khắp các vùng nhiệt đới, nhưng tập trung nhiều ở vùng Nam Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam đã ghi nhận được 12 loài.
Loài gừng dại trên phân bố rải rác ở Lạng Sơn (Hữu Lũng), Thái Nguyên, Hà Nội (Ba Vì), Ninh Bình (Cúc Phương) và một số tỉnh khác ở miền Nam. Trên thế giới, loài này có ở Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và Indonesia.
Gừng dại là loại cây thảo sống nhiều năm và thường xanh. Cây ưa ẩm và hơi chịu bóng; thường mọc ở ven rừng, dọc theo các lối đi trong rừng, trong các hốc mùn đá ở rừng núi đá vôi, hoặc trong các lùm bụi ở bờ khe suối và đôi khi còn thấy ở bờ các nương rẫy. Cây ra hoa quả hàng năm, tái sinh tự nhiên từ hạt tốt. Đặc biệt cây có khả năng đẻ nhánh nhiều đồng thời với quá trình phát triển của thân rễ, nên gừng dại thường nhanh chóng tạo thành từng bụi lớn. Cây dễ dàng trồng được bằng các nhánh con của thân rễ (củ).
Bộ phận dùng:
Thân rễ.
Thành phần hóa học
Thân rễ gừng dại tươi, cất béo hơi nước thu được 0,5% tinh dầu (The Wealth of raw material tin India, 1976).
- Thành phần chính của tinh dầu là 4 – ol (35%), sabinen (34,68%), y – terpinen (9%), α – terpinen (4,8%), p – cymol (2,1%), terpinelol (2,1%), α – pinen (2,5%), β – pinen (2,1%) và myrcen (1,6%).
- Tinh dầu ở dạng sánh, mùi thơm, kết tính ở nhiệt độ thường, cho tinh thể màu trắng đục, không tan trong nước, nhưng tan tốt trong nước ấm, để lạnh kết tinh lại và nổi lên trên bề mặt.
Tác dụng dược lý
Tinh dầu cất từ thân rễ gừng dại được chứng minh có tác dụng ức chế phù bàn chân chuột cống trắng gây bởi carragenin.
Tinh dầu này dùng cho bệnh nhân viêm đa khớp dạng thấp, có tác dụng điều trị tốt, cải thiện rõ rệt các triệu chứng của bệnh. Cao hexan có tác dụng giãn phế quản và chống viêm.
- Bảy hợp chất phân lập từ cao hexan gừng dại có tác dụng ức chế phù bàn chân chuột cống trắng gây bởi carragenin. Trong các hợp chất thử nghiệm, hợp chất D có tác dụng ức chế phù mạnh nhất.
- Trong thử nghiệm giảm đau, hợp chất D có hoạt tính ức chế có thể so sánh với acid acetylsalicylic trên đáp ứng quặn đau gây bởi acid acetic ở chuột nhắt trắng, nhưng chỉ gây một tác dụng yếu trong thử nghiệm kẹp nhẹ trên đuôi chuột. Kết quả nghiên cứu gợi ý là các tác dụng chống viêm, giảm đau và hạ sốt của hợp chất D có thể có cùng cơ chế như các thuốc chống viêm không steroid, là do ức chế sinh tổng hợp prostaglandin (Panthong A et al.,1990).
Hoạt chất curcumin phân lập từ gừng dại có hoạt tính ức chế sự hoạt hoá virus Epstein – Barr (Murakami A, et al., 1998). Cao chiết ethanol trong bóng tối ở nhiệt độ phòng của gừng dại có hoạt tính kháng khuẩn dưới tia tử ngoại đối với: Streptococcus Bacillus subtilis, Aspergillus fumigatus, Candida albicans.
- Tinh dầu gừng dại có hoạt tính kháng khuẩn mạnh đối với vi khuẩn gây bệnh ở động vật truyền sang người có: Salmonella typhimụrium TisTR 292, Salmonella enteridis DMST 17368, Escherichia coli 0157, Campylobacter jejuni, DMST 15190 và Clostridium perfringens DMST 15191, và 10 loài Salmonella khác là những vi khuẩn gây bệnh quan trọng đối với việc xuất khẩu gà giò đông lạnh.
- Kết quả nghiên cứu này cho thấy có thể sử dụng tinh dầu gừng dại thay thế kháng sinh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm (Wannison B. et al., 2005).
Cao chiết cây gừng dại có hoạt tính độc hại tế bào tương đối yếu trong thử nghiệm in vitro trên các dòng tế bào ung thư phổi (A549), kết tràng (Col 2) và dạ dày (SNU – 638) của người được nuôi cấy, với nồng độ có tác dụng EC50 < 20kg/ml (Park G. et al., 2002).
Tính vị, công năng
Gừng dại có vị cay, đắng, tính ấm. Có tác dụng trị đầy hơi, nhuận tràng nhẹ, trị lỵ, điều kinh, làm săn da [Võ Văn Chi, 1997: 535 – 536].
Công dụng
Nhân dân một số địa phương dùng củ gừng dại để chữa lỵ mạn tính. Gừng dại cũng được dùng để chữa bệnh toi gà [Đỗ Tất Lợi, 1999: 1191; Võ Văn Chi, 1997: 535-536]. Dịch ép củ được chế thành thuốc bôi để chữa áp xe, đau bụng, tiêu chảy.
- Ở Malaysia, nước sắc lá gừng dại và hạt tiêu được uống để trị đau dạ dày, nước sắc cây được dùng cho phụ nữ sau khi đẻ, củ được dùng làm thuốc tẩy giun cho trẻ em. Nhiều dạng thuốc xa bóp, thuốc đắp móng, thuốc sắc uống được dùng cho phụ nữ sau khi đẻ. Gừng dại còn được dùng trị viêm tấy, thấp khớp, thâm tím, đụng giập, bàn chân tê cóng, các chỗ đau, và dùng nấu nước tắm trị sốt.
- Ở Indonesia, gừng dại được dùng làm thuốc trị đầy hơi, giảm chướng bụng, gây trung tiện, trị tiêu chảy, đau bụng, táo bón, và vàng da. Gừng dại phối hợp với riềng nếp, thuỷ xương bồ và ít giấm dùng cho phụ nữ sau khi sinh đẻ làm thuốc lọc máu, giã nát cùng với định hướng xoa lên bụng trị chuột rút, co cứng cơ.