Mô tả
- Cây nhỏ hoặc cây bụi, luôn xanh, cao 5 – 15m, có gai đơn hoặc kép khi còn non; vỏ màu nâu sáng đến đỏ nhạt. Cành non có nhiều bì khổng gần hình mắt chim, có lông tơ hoặc nhẵn.
- Lá mọc so le, hình trứng thuôn, hiếm khi mũi mác, gốc tròn, đầu nhọn, mép khía răng, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt; cuống dài 6 – 8 mm.
- Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành ngủ ngắn; hoa nhỏ 4 – 6, gồm hoa đực và hoa cái, xuất hiện trước hoặc cùng lúc với lá, có mùi thơm như mật ong. Ở hoa đực, chi nhỏ nhắn, ở hoa cải, bầu có đầu nhụy cong, đài 4 răng tù, màu lục nhạt, cánh hoa 0, nhi 40, bầu hình cầu, 3 – 5 ô, mỗi ô đựng 2 noãn.
- Quả thịt hình cầu, đường kính 1,5 – 2,5 cm, có đài tồn tại, khi chín màu đỏ đến tía sẫm, sau đen, thịt màu vàng. Hạt 4 – 5 có khi 10, dẹt.
- Mùa hoa quả: tháng 8 – 10.
Phân bố, sinh thái
Chi Flacourtia L’ Hér ở Việt Nam có 4 loài, loài mùng quân trên vừa thấy mọc tự nhiên đồng thời cũng được trồng ở vùng núi thấp và trung du, như Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tây (cũ), Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Thanh Hóa và một số tỉnh miền Trung từ Nghệ An trở vào. Cây mọc tự nhiên thường thấy ở ven rừng, rừng thử sinh, trong các lùm bụi ở bờ suối tại cửa rừng và bờ ao. Tại các tỉnh trung du ở miền Bắc, người dân cũng thường thấy mùng quân ở bờ ao. Tuy nhiên, mùng quân trồng có quả to, ăn ngọt hơn ở những cây mọc tự nhiên.
Mùng quân là loại cây gỗ nhỏ trung sinh. Cây mọc tự nhiên có khả năng chịu hạn tốt, do có bộ rễ dài tới hơn 1m. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Trong nhân dân, người ta có thể lấy cây con từ chối rễ để trồng.
Bộ phận dùng:
Quả, lá, vỏ, rễ.
Thành phần hóa học
- Quả chứa 9,9% tanin.
- Hạt chứa dầu béo [Sastri et al. IV, The wealth of India, 1956, 43].
Tác dụng dược lý
Tác dụng hạ huyết áp:
Thí nghiệm được tiến hành trên mèo. Cao khô toàn cây mùng quân với liều 50 mg/kg tiêm tĩnh mạch có tác dụng làm hạ huyết áp (Bhakuni et al., 1971). Cao khô được chế tạo như ở mục thử độc tính cấp.
Độc tính cấp:
Độc tính cấp của cao khổ mùng quân được nghiên cứu ở chuột nhắt trắng dùng đường tiêm phúc mạc. Kết quả cho thấy, với liều 1000 mg/kg, chuột không chết, chứng tỏ cao có độc tính cấp thấp. Cao khô được chế tạo bằng cách dùng toàn cây mùng quân, phơi khô, tán thành bột thô, rồi chiết bằng ethanol 50%. Sau đó, cô dưới áp suất giảm đến thể chất cao khô (Bhakuni et al., 1971).
Tính vị, công năng
Quả mùng quần có vị ngọt, tính ấm, không độc; có công năng tiêu thực, phá tích trệ, giáng khí, lợi đờm. Quả non vị chua, làm săn se; lá non và chồi bổ, lợi tiêu hóa và làm săn da.
Công dụng
Quả non giã vắt lấy nước cốt chữa đau bụng, ỉa chảy. Quả chín ăn ngon và được dùng làm mứt. Lá chữa ho, hen, ngày 5 – 10g lá khô sắc uống.
- Ở Ấn Độ, vỏ cây được dùng chữa thiểu năng mật và bệnh gan; vỏ cây và rễ khô, nghiền thành bột, tấm nước, đắp lên da trị mụn nhọt, ban da, lở loét da. Quả ngọt, sau đó chua để giải khát, kích thích tiêu hóa, chống va cháy, chống thiếu mật và đau gan, chống buồn nôn [Kitikar et al., 1998, 1: 219]. Lá phơi khô sắc uống chữa ho, viêm phế quản, hen. Lá non và chồi tươi, hơi chua và cay giống vị đại hoàng làm săn sẻ, được dùng chữa ia chảy, lỵ, làm ra mồ hôi, chữa đau răng, viêm lợi xuất huyết, viêm miệng. Dịch lá tươi và thân còn non được dùng trị sốt, sốt rét định kỳ cho trẻ em.
- Ở Indonesia, quả được dùng để ăn, rễ và lá được dùng để chữa đau dạ dày dùng cho phụ nữ sau khi đẻ; rễ để chữa vết thương, viêm da, viêm amiđan, lá để chữa ia chảy, lao và để bổ dưỡng [Med. herb index, 1995: 46].