Mục lục

Hình ảnh cây thùn nũn
Mô tả cây
- Cây mọc hoang ở các đồi thành từng bụi cao chừng 1-2m. Thân cứng, màu tía tím thỉnh thoảng có cành đỏ tươi hơn, trông như hơi mốc. Có vạch dọc rất rõ, bì khổng nhỏ như hạt kê.
- Cành lá mọc so le, hình lưỡi mác, mặt dưới nhạt hơn, dài 4,5-5cm, rộng 1,5-2cm. Phiến ở phía cuống hẹp nhọn. Cuống ngắn 5-6mm.
- Hoa màu vàng lục nhạt, mọc dày đặc ở cành, đài hình tam tam giác nhọn, thuôn tù, nhị bầu nhỏ, hình nón.
- Qủa hình cầu, có núm nhọn, khi chín màu đỏ, đường kính khoảng 6mm, chứa một hạt. Vị lúc đầu ngọt, sau chua và hơi tê tê.
- Cây thường ra hoa vào khoảng tháng 2 – 4, sau đó kết quả vào tháng 5 – 7.
Thành phần hóa học
Trong quả có tanin, tinh dầu và axit embelic (còn gọi là embelin hay embelon-dihydroxy 2-5-lauryl 3-benzo quinon 1-4) một chất có cấu tạo quinonic.
Embelic là bột kết tinh hình lá nhỏ, màu vàng kim nhũ ống ánh, không mùi vị, không tan trong nước, tan trong cồn, ether, coloroform, benzen, tan trong dung dịch hydroxyd natri loãng (cho màu đỏ nhạt) và đa số các dung môi hữu cơ. Hoạt chất được dùng dưới dạng embelat amoni.
Bộ phận dùng
Qủa chính phơi hay sấy khô của cây Thùn mũn. Khi dùng xát sạch vỏ, lấy hạt, phơi khô và tán nhỏ.
Tác dụng dược lý
Chưa có tài liệu nghiên cứu, nhưng nhân dân dùng làm thuốc chữa giun sán, không thấy có hiện tượng độc, chỉ hơi say say.
Công dụng và liều dùng
- Nhân dân dùng hạt trị giun đũa, giun kim và sán sơ mít.
- Tối hôm trước nhịn, sáng sớm hôm sau uống 5g bột trộn với mật hoặc đường.
- Trẻ con uống 2-2,5g
- Ở Bắc Ninh có nơi uống tới 3 thìa súp hạt.
Cách dùng và liều lượng
Dùng để trị giun sán: Qủa thùn mũn chín phơi khô, tán bột, trộn với mật ong, dùng để uống vào sáng sớm lúc đói. Liều lượng mỗi ngày 5g.
Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam