Mục lục
Mô tả cây
- Ta dùng vỏ thân, vỏ cành to và vỏ rễ phơi khô hay sấy của cây xoan – Cortex Melia. Vỏ rễ tốt hơn
- Xoan là một cây cao to, có thể đạt tới 25-30m nhưng không thường chỉ thấy 10-15m là người đã khai thác. Vỏ thân xù xì, nhiều chỗ lồi lõm, với nhiều vết khía học. Lá mọc cách 2-3 lần kép lông chim lẻ. Chiều dài tona2 bộ lá có thể tới 60-100cm, chiều rộng toàn bộ lá 40-60cm. Lá chét dài 7-8cm, rộng 2-3cm. Cuống lá chét ngắn, mép khứa răng cưa nông, mặt dưới lá và cuống có lông hình khiên. Cụm hoa hai ngả, 4-5 lá dài, 4-5 cánh hoa màu tím nhạt, ống nhị màu tím.
- Bần 4-5 lá noãn. Qủa xoan kết quả vào tháng 3, chín vào tháng 12. Khi còn nhỏ non màu xanh, khi chín có màu vàng. Trong quả chứa một hạch màu nâu nhạt
- Ở các tỉnh vùng Tây bắc (Sơn la, Lai châu) cây xoan mọc phổ biến là loài Melia toosendan Sieb, et Zucc., có quả to hơn, quả hạch có 6-8 ô
Phân bố, thu hái và chế biến
- Xoan là một cây mọc hoang và trồng nhiều nơi trong nước ta, miền núi cũng như miền xuôi, ở miền xuôi cây mọc khỏe hơn. Nhân dân ta hay trồng xoan vì dễ trồng, chóng lớn. Chỉ sau 6-7 năm là có thể khai thác để lấy gỗ làm cột nhà, đồ dùng. Xoan thích hợp với nhiều loại đất: bãi cát, đồng bằng, đồi núi, nương rẫy. Thường trồng bằng hạt: vào khoảng tháng 12 hạt xoan đã chín, hái về ngâm nước, chà sạch lớp thịt bên ngoài, đem phơi khô cất nơi khô ráo. Hạt xoan có thể giữ từ 7-8 tháng. Khi trồng đào hốc sâu 25-30cm, rộng 30-40cm, hố này cách hố kia 1-1,5m mỗi hốc gieo 3-4 hạt
- Khi lấy vỏ làm thuốc nên chọn những cây đã đến tuổi khai thác gỗ (6-7 năm), chặt cả cây, cạo bỏ vỏ đen rồi bóc lấy lớp vỏ lụa trắng của vỏ thân, vỏ cành to; nếu cần đào cả rễ, bóc lấy lớp vỏ bõ gỗ lại vẫn dùng làm củi được. Như vậy trước đây khi khai thác xoan ta thường cạo vỏ bỏ đi hay chỉ đào rễ xoan làm củi thì nay kết hợp lấy vỏ làm thuốc. Gỗ và rễ vẫn dùng như cũ. Ta còn có thể đào rễ ở những cây xoan còn sống, hay bóc lấy lớp vỏ ở thân những cây xoan còn đang phát triển. Nhưng chú ý để đủ vỏ cho cây sống.
- Vỏ hái về phơi hay sấy khô. Khi dùng sao cho hơi vàng, hết mùi hăng là dùng được, không phải chế biến gì khác
- Vỏ thân và rễ được dùng làm thuốc nhưng vỏ rễ mạnh hơn, với tên khổ luyện căn bì
- Nhìn bề ngoài rất khó phân biệt vỏ thân hay vỏ rễ, nhưng qua vi phẫu ta có thể phân biệt căn cứ vào mạch gỗ của vỏ thân hình chữ nhật, còn mạch gỗ của vỏ rễ hình tròn; lớp nhu mô của vỏ thân chứa diệp lục còn nhu mô của vỏ rễ chứa tinh bột. Cụ thể từ ngoài vào trong vỏ thân ta thấy: lớp hóa bần thường bong ra ngoài, hai hàng tế bào biểu bì xếp đều đặn, đám sợi xếp rải rác trong phần nhu mô, nhu mô có tế bào hình trứng xếp lộn xộn, chứa diệp lục, libe có tế bào nhỏ ,vỏ mỏng, mạch gỗ hình chữ nhật, xếp thành hàng nằm trong nhu mô gỗ
- Trong vi phẫu vỏ rễ cũng có lớ[ hóa bần thường bóng ra ngoài màu nâu, hai hàng tế bào biểu bì xếp đều đặn, thỉnh thoảng có những bó sợi nằm trong nhu mô, nhu mô với tế bào hình trứng có chứa tinh bột, đám libe với những tế bào nhỏ mỏng, mạch gỗ hình tròn, nhu mô gỗ với tế bào nhiều mặt
- Ngoài vỏ thân và vỏ rễ, người ta còn dùng cả quả xoan làm thuốc với tên khổ luyện tử
Thành phần hóa học
- Vỏ thân và vỏ rễ chứa một ancaloit vị đắng, do Cornish lấy ra lần đầu tiên và được đặt tên là macgosin, có tác dụng diệt giun, ngoài ra còn 70% tanin. Nhưng có tác giả lại cho Macgosin chỉ là một chất nhựa vô định hình
- Theo một tác giả Nhật bản (Trung Lâm Lợi Bình Dược học tạp chí 1952,72(5):717-718) thì thành phần diệt giun trong vỏ xoan là một chất có tinh thể hình kim không màu, có công thức thô là C9H8O4, độ chảy 154°C. Trong vỏ xoan Melia azedarach L., có chất kulinon độ chảy 138°C, kulacton độ chảy 163-164°5C, tất cả đều là dẫn xuất của euphan”
Tác dụng dược lý
Tác dụng chữa giun
- Chiết vỏ xoan bằng nước đun sôi theo lối sắc thuốc, sau cô thành cao mềm và chiết cao mềm bằng cồn etylic, thu hồi cồn được nhựa màu vàng nâu vị đắng, mùi hăng hăng; làm chết giun lợn trong 30 phút
- Chiết vỏ xoan bằng nước, sau đó cô dịch chiết tới cao mềm và chiết cao mềm bằng axeton. Bốc hơi axeton, được thứ nhựa màu vàng, nhựa này có tác dụng làm giun lợn chết 20 phút
Trên lâm sàng
Hầu như chưa được dùng và theo dõi cẩn thận ở nước ta. Nhưng tại nhiều nước, đặc biệt tại Trung quốc, vỏ xoan là một loại dược liệu đặc biệt được chú ý sử dụng và theo dõi trên lâm sàng:
- Năm 1952, Vương Đức Phấn và cộng sự (Nội khoa học báo 6, 406) đã báo cáo sử dụng nước sắc vỏ xoan 100% trị 35 ca giun đũa đạt kết quả 78%, liều dùng vỏ rễ là 4-5g trên một kg thể trọng, uống vào hơi có tác dụng tẩy, một số tác dụng phụ sinh mặt đỏ bừng, buồn ngủ không cần uống tẩy
- Năm 1957, Trung y viện Trùng khánh Trung quốc (Trung hoa y học tạp chí, 5:372-375 hoặc Trung y học tạp chí 3:142-144) đã dùng thuốc viên chế từ vỏ xoan dưới hình thức viên 0,3 và 0,1 hoạt chất chữa 1327 trường hợp giun đũa kết quả đạt 72,2% với liều dùng sau đây: 1 tuổi uống từ 1 -1.1/2 viên (hoạt chất thô chế 0,3g, hoạt chất tinh chế 0,1g), 2-4 tuổi uống 2-3 viên, 5-8 tuổi uống 4 viên, 9-12 tuổi uống 5 viên, 13-18 tuổi uống 6 viên và trên 19 tuổi uống 7-9 viên; liều dùng còn căn cứ vào thể trạng bệnh nhân mà thêm bớt. Chừng 40% bệnh nhân uống vào thấy có tác dụng phụ như hơi choáng váng, buồn ngủ, mặt đỏ, nhưng rất chóng hết.
- Năm 1959, Sở nghiên cứu trung dược tỉnh Tứ xuyên đã chế vỏ xoan thành thuốc viên áp dụng trên 4374 bệnh nhân, kết quả giun đũa ra đạt 73,79% so sánh với santonin không kém (Trung y tạp chí, 4;46-49)
- Năm 1959 (Trung Hoa nội khoa tạp chí 3, 241-244) Luyện Mai Thanh và cộng sự đã báo cáo sử dụng thuốc viên chế từ vỏ xoan chữa 115 ca giun đũa, đạt kết quả 76,52% trứng giun trorng phân chuyển âm tính đạt 51,43%; sau khi uống thuốc có phản ứng không tốt chiếm 22,61% biểu thị đau bụng, đầu váng, buồn nôn, bụng đầy trướng, phát sốt, nhức đầu là một trong những triệu chứng thường gặp nhất, thứ đến mắt hoa, không muốn ăn, mặt đỏ bừng, toàn thân yếu mệt, nói khó khăn, buồn ngủ, chân tay tê dại..v.v
- Tại Việt nam trong năm 1967, chúng tôi cùng đỗ Văn Thủ phối hợp với trạm vệ sinh phòng dịch Ty Y tế Hòa bình tiến hành tẩy giun bằng vỏ xoan và cách dùng sẽ giới thiệu ở phần công dụng và liều dùng nhưng không quá 1g vỏ trên 1kg thân thể thì thấy trên toàn bộ những thí nghiệm và trên 117 trường hợp theo dõi cẩn thận hoàn toàn không có ai phản ứng xấu. Toàn bộ những người uống đều ra giun kim, 86% ra giun đũa, có em bé ra tới 105 con giun và có người lớn đã uống nhiều thuốc giun khác như xiro piperazin, santinin chưa bao giờ ra giun nay uống vỏ xoan đã ra giun (Luận văn tốt nghiệp của Đỗ Văn Thủ-Khoa Dược liệu trường đại học dược khoa Hà nội 1968)
Tác dụng khác
Nước sắc vỏ xoan 4ml=1g vỏ xoan có tác dụng ức chế một số vi trùng bệnh ngoài da (Trung hoa bì phu khoa tạp chí 1957, 4; 268-292)
Nước sắc vỏ xoan còn dùng chữa bệnh viêm âm đạo do tích trùng đạt kết quả rất tốt (Trung hoa phụ sản khoa tạp chí 1959, 3:193)
Năm 1978, Phó Đức Thuần, Lê Đức Thọ và cộng sự (Tạp chí Đông y, 153, 23-30) đã nghiên cứu độc tính hoạt chất của vỏ xoan do Đỗ Tất Lợi và cộng sự đã chiết được và đi tới những kết luận sau:
- Liều DL-50 của hoạt chất có phản ứng nhựa (đặt tên là melia 1) trên chuột nhắt sau 40 phút đầu tiên là 1,491g/kg, sau 24 giờ là 1,356g/kg và sau 48 giờ là 1,277g/kg, của hoạt chất phản ứng của ancaloit (đặt tên là melia 2) là 4,375g/kg (sau 24 giờ) và 4,077g/kg (sau 48 giờ). Nếu so với DL-50 của santonin trong cùng điều kiện thí nghiệm là 0,485g/kg (sau 24 giờ) và 0,444g/kg (sau 48 giờ) thì melia 1 độc hơn melia 2 từ 3 -5 lần, và ít độc hơn satonin từ 2-8 lần. Nếu so sánh liều DL-50 trung bình sau 24 giờ của melia 1 với liều thường dùng trên người để tẩy giun (1g đối với người lớn trên 50kg tức là 0,02g/kg) thì ta thấy biên độ an toàn của thuốc rất lớn: 1,277/0,02:63,85 (hơn 60 lần). Điều này thể hiện trong việc sử dụng thăm dò hoạt chất này trong 8 năm (từ 1970 -1978) chưa thấy gây tác dụng phụ nào đáng kể, trong khi qua tài liệu công bố của trung y viện Trùng khánh (Trung quốc) có tới 40% bệnh nhân uống thuốc xoan thấy choáng váng, buồn ngủ, mặt đỏ nhưng chóng hết
- Trên súc vật chết sớm (sau 40 phút) mổ ngay thấy tình trạng xung huyết ở các phủ tạng Gan thái mỡ nhẹ, có súc vật không thấy có biến đổi gì ngoài tình trạng xung huyết. Trên chuột mổ để xét nghiệm sống sau 72 giờ thấy có tổn thương ở gan, thận, ruột. Gan thoái hóa mỡ, ruột có đoạn quá sản, lớp liên bào trên mặt ranh giới
- Trên tim ếch cô lập từ nồng độ 1-5% melia làm giảm biên độ co bop của tim có tần số khôg thay đổi. Nồng độ 5% làm ngừng co bóp tim.
- Trên mạch ếch cô lập, melia 1 từ nồng độ 1% làm giảm mạch rõ rệt, ở nồng độ 1% làm giãn tĩnh mạch nhiều nhất
- Trên huyết áp hô hấp thỏ, ở nồng độ 1%, 7% chưa thấy biến đổi rõ hô hấp nhưng trên huyết áp các sóng có nhiều biến đổi rõ rệt, nhưng đến nồng độ 1-3% huyết áp có hạ nhưng không đáng kể và biểu hiện rõ rệt nhất là hô hấp giảm dần rồi ngừng. Nồng độ 1%, thỏ đã khó thở, có những cơn ngừng thở kéo dài, đến nồng độ 3% thỏ ngừng thở rồi chết. Trên thí nghiệm huyết áp hô hấp đưa thuốc vào bằng đường uống, với liều 1g/kg mới xuất hiện các triệu chứng bệnh lý đã gặp ở thí nghiệm uống, triệu chứng ức chế hô hấp vẫn sớm hơn, mạnh hơn so với triệu chứng hạ huyết áp. Kết quả thực nghiệm trên súc vật đã phần nào giải thích cơ chế gây độc trên lâm sàng: mặt đỏ bừng, buồn ngủ, mệt xỉu, chân tay bủn rủn,..và hiệu quả của phương pháp cấp cứu ngộ độc bằng cafein, niketamit và một số thuốc khác torng những công trình cấp cứu ngộ độc xoan ở trong và ngoài nước.
- Tác dụng kích thích niêm mạc ruột và tác dụng tíchluy4 làm ảnh hưởng xấu đến gan cần chú ý để tránh dùng kéo dài.
Công dụng và liều dùng
- Vỏ rễ và vỏ thân xoan được nhân dân ta dùng chữa giun từ lâu đời nhưng vì có độc mà liều lượng dùng thường thiếu chính xác cho nên tuy có nhiều kết quả tốt nhưng cũng đã gây ra một số vụ ngộ độc
- Cho nên gần đây ở nước ta hầu như không thấy sử dụng chữa giun, nhưng tại Trung quốc Mỹ, nhânda6n dùng vỏ xoan làm thuốc chữa giun kim và giun đũa
- Muốn phục hồi lại việc dùng vỏ xoan chữa giun cần chú ý tới liều lượng và cách chế biến sao cho tiện dụng. Tránh sử dụng bừa bãi tự động dễ gây những tai hại đáng tiếc.
- Sau đây là những hình thức sử dụng vỏ xoan có kinh nghiệm:
1. Dùng dưới hình thức thuốc bột: bóc lấy vỏ xoan, cạo bỏ lớp vỏ nâu bên ngoài, chỉ lấy lớp vỏ lụa. Sao cho hơi vàng đỡ mùi đăng rồi tán nhỏ. Chia thành từng gói 0,7-1g. Liều dùng như sau:
- Trẻ từ 1 tuổi trở xuống: ngày uống từ 0,15-0,2g
- Trẻ em 2 tuổi: ngày uống từ 0,2-0,25g
- Trẻ từ 3 tuổi: ngày uống từ 0,25-0,35g
- Trẻ từ 4 tuổi: ngày uống từ 0,35-0,50g
- Trẻ từ 5 tuổi: ngày uống từ 0,7g- 1g
- Trẻ từ 10 tuổi trở xuống: ngày uống từ 1g-1,5g
- Trẻ từ 15 tuổi trở xuống: ngày uống từ 1,5g-2g
- Người lớn: ngày uống từ 2-3g bột. Uống vào lúc sáng sớm lúc đói. Lấy chuối chấm bột cho dễ uống
2. Dùng hình thức thuốc sắc: vỏ lấy về cạo bỏ lớp vỏ nâu bên ngoài, thái nhỏ, phơi khô và sao cho bớt mùi hăng, sắc 4 nước, mỗi lần đun sôi và giữ sôi 1 giờ rưỡi đến 2 giờ. Cô các nước sắc lại ví dụ 1kg vỏ thì cô còn 1 lít. Sau đó thêm cùng 1 thể tích 1 lít xiro đơn. Trộn đều, cho uống liều như sau:
- 1-2 tuổi: uống 20ml tương ứng với 10g vỏ khô
- 3-5 tuổi: uống 30ml tương ứng với 15g vỏ khô
- 6-9 tuổi: uống 40ml tương ứng với 20g vỏ khô
- 16-19 tuổi: uống 65ml tương ứng với 32,5g vỏ khô
- 19 tuổi trở lên: uống 65ml tương ứng với 32,5g-40g vỏ khô
- Uống vào lúc sáng sớm lúc đói. Nhịn ăn đến trưa thì ăn uống bình thườg, chỉ uống một buổi sáng.
Từ 1973, Đỗ Tất Lợi và cộng sự đã chiết được hoạt chất của vỏ xoan và chế thành viên 0,1g đặt tên là viên Melia dùng với liều 1-3 viên cho trẻ từ 1-4 tuổi, 4-6 viên cho trẻ từ 5-15 tuổi. Trên 15 tuổi dùng với liều 7-10 viên. Ngoài công dụng chữa giun, nhân dân còn dùng lá sắc diệt côn trùng: lá cây 4 kg, nước 10 lít. Phun lên những cây bị sâu bọ ăn hại. Còn để lá xoan vào chum đựng các loại hạt như hạt đậu để tránh mọt, hoặc nấu nước tắm cho súc vật (trâu, bò , ngựa), để chữa ghẻ. Vỏ xoan là thuốc dùng có hiệu lực nhưng có độc cho nên phải cẩn thận khi sử dụng.