Mục lục
Mô tả cây
Cẩu Tích là một loại dương xỉ thân gỗ, có phần thân rễ (củ) lớn, mọc ngang, bên trên là một cụm lá sum suê.
Thân và lá:
- Cuống lá dài đến 120cm, dày khoảng 2-3cm, màu nâu sẫm.
- Phần gốc cuống có một lớp lông dày màu vàng óng, dài hơn 10cm, trông bóng mượt.
- Lá lớn, dài tới 180cm, rộng gần bằng chiều dài, hình tam giác rộng và chia nhiều nhánh nhỏ.
Phân nhánh lá:
- Các nhánh lá lớn dài 80cm, rộng 20-30cm, có cuống dài 3-4cm, mọc so le.
- Nhánh nhỏ dài 15cm, rộng 2.5cm, có cuống ngắn 2-3mm, hình mũi mác kéo dài, gốc tròn.
- Lá con cuối cùng dài 1-1.4cm, rộng 3mm, mép có răng cưa nhỏ, đầu nhọn, mọc hơi nghiêng lên.
Mặt lá và gân lá:
- Lá có kết cấu hơi dai, khi khô chuyển màu nâu bóng ở mặt trên, mặt dưới màu trắng xám hoặc xanh xám.
- Hai mặt lá nhẵn, đôi khi có ít lông mịn màu nâu trên gân chính.
Bào tử và sinh sản:
- Bào tử nằm ở mặt dưới của lá, mỗi lá có từ 1-5 cụm bào tử.
- Mỗi cụm được che bởi một lớp vỏ cứng, màu nâu sẫm, khi chín sẽ mở ra như vỏ sò để giải phóng bào tử.
- Bào tử có hình tam giác bốn mặt, trong suốt.
- Mùa sinh sản: tháng 10-1
Cây dễ nhầm lẫn với:
- Cây áo cốc (Dennstaedtia scabra)
- Cây lá lược (Microlepia speluncae)
- Cây vảy lợp (Davallia divaricate)
Sinh trưởng, phân bố, thu hái và chế biến
Môi trường sinh trưởng:
Cây Cẩu Tích có yêu cầu môi trường sống khá khắt khe, thường mọc ở những khu vực có đất chua, độ ẩm cao và rậm rạp với độ che phủ lớn. Cây thích hợp sinh trưởng ở những nơi gần suối, rãnh nước và thường xuất hiện trên các sườn núi có hướng Tây Bắc hoặc Đông Bắc, nơi có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp để phát triển.
Phân bố:
Cẩu tích mọc hoang khấp nơi ở miền rừng núi Việt Nam, Lào, Campuchia, Philipin, Malaixia và Inđônêxia. Miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam) cũng có.
Thu hái, chế biến:
Thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào cuối thu sang đông. Khi hái về thì rửa sạch cắt bỏ rễ con, cuống lá và lông vàng phủ xung quanh thân rễ, thái mỏng, phơi khô. Có khi đồ hơi nước rồi mới phơi, làm như vậy nhiều lần; có khi lại còn đổ với đậu đen chín lần đồ, chín lần phơi rồi cuối cùng thái mỏng phơi khô.
Thành phần hoá học
Thân rễ cẩu tích chứa 30% tinh bột. Lông culi chứa tannin và sắc tố.
Phân lập từ thân rễ cẩu tích nhiều hợp chất và nhận dạng là β-sitosterol, acid stearic, daucosterol, acid protocatechuic, acid cafeic
Công dụng và liều dụng
Công dụng:
Cây Cẩu Tích có nhiều công dụng trong y học. Phần rễ của cây, khi được sử dụng làm thuốc, được gọi là “Kim Mao Cẩu Tích” và theo ghi chép trong Thần Nông Bản Thảo Kinh của Trung Hoa, nó có vị đắng, ngọt, tính ôn, giúp bổ gan thận, tăng cường sức khỏe xương khớp, giảm đau do phong thấp, làm mạnh gân cốt và hỗ trợ lợi tiểu. Đặc biệt, lớp lông vàng trên thân rễ có tác dụng cầm máu.
Ngoài công dụng chữa bệnh, Cẩu Tích còn có giá trị thẩm mỹ cao nhờ dáng cây lớn, lá xanh quanh năm, cứng cáp và bóng đẹp. Cây thích hợp trồng dưới tán rừng, trong vườn hoặc làm cây cảnh trong nhà dưới dạng bonsai, tạo không gian xanh mát. Phần rễ phủ lông vàng óng có thể được chế tác thành các sản phẩm mỹ nghệ tinh xảo để trưng bày.
Liều dùng:
- Ngày dùng 10-18g dưới dạng thuốc sắc.
Bài thuốc có vị Cẩu tích
Chữa ngang lưng đau nhức:
Cẩu tích 15g, ngưu tất 10g, đồ trọng 10g, sinh mễ nhân 12g, mộc qua 6g, nước 600ml. sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Có thể thêm 20ml rượu trong khi uống thuốc, nếu uống được rượu.Thân rễ cẩu tích chứa 30% tinh bột. Lông culi chứa tannin và sắc tố.
Chữa phong thấp, chân tay tê bại:
Cẩu tích 20g, ngưu tất 8g, mộc qua 12g, tang chi 8g, tùng tiết 4g, tục đoạn 8g, đỗ trọng 8g, tần giao 12g, quế chi 4g, nước 600g. Sắc còn 250ml, chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa đau lưng mỏi gối do thận yếu:
Cẩu tích 20g, rễ gối hạc 12g, củ mài 20g, rễ cỏ xước 12g, bổ cót toái 16g, dây đau xương 12g, thỏ ty tử 12g, tỳ giải 16g, đỗ trọng 16g. Thêm nước, sắc uống.
Chữa thận hư, sống lưng đau mỏi:
Cẩu tích 16g, thục địa 12g, đỗ trọng 10g, ô dược củ sung, dây tơ hồng sao, quả kim anh, đều 8g, sắc uống.
Chú thích:
- Ngoài thân rễ cẩu tích, người ta còn dùng lông vàng phủ xung quanh thân rễ để đắp các vết thuơng, vết đứt tay, đứt chân để cầm máu.
- Tác dụng này do các lông đó hút huyết thanh của máu và giúp cho sự tạo máu cục, làm cho máu chóng đông. Có khi người ta còn dùng lông này để nhồi đệm, nhồi gối.