Tra cứu dược liệu https://tracuuduoclieu.vn Thu, 26 Jun 2025 03:40:51 +0700 vi hourly 1 Dây lửa ít gân https://tracuuduoclieu.vn/day-lua-it-gan.html https://tracuuduoclieu.vn/day-lua-it-gan.html#respond Wed, 09 Nov 2022 07:07:23 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=69430 Mô tả
  • Dây lửa ít gân là loại dây leo thân gỗ, dài 6-20m .
  • Cành non nhiều lông mềm.
  • Lá kép có từ 7-19 lá phụ phiến xoan mọc gần đối.
  • Hoa mọc ở nách lá, hoa ít, cụm hoa cao 2-7cm.
  • Quả không có lông, hình bầu dục dài khoảng 2 cm, lúc đầu màu xanh, chín chuyển sang màu đỏ.
  • Hạt có 1 lớp áo bao bên ngoài.

Phân bố

Dây lửa ít gân là một thảo dược đặc hiệu quý hiếm chỉ có ở một số vùng nhất định cứ không phân bố rộng như các loại dược liệu khác. Dây lửa ít gân chỉ mọc ở trên núi một số vùng: Tuyên Quang, Yên Bái, Thừa Thiên Huế, Thái nguyên.

Bộ phận sử dụng

Rễ, thân.

Thành phần hóa học

Dây lửa ít gân ( mú từu) có chứa tinh dầu và các hoạt chất quý hiếm.

Hàm lượng tinh dầu từ lá và rễ của loài Dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia) tương ứng là 0,07% : 0,05% theo nguyên liệu khô không khí. Tinh dầu có màu trắng, nhẹ hơn nước.

Trong nghiên cứu thành phần hóa học từ ​​thân cây của Rourea oligophlebia, các nhà khoa học phân lập được năm hợp chất bao gồm Friedelin, Friedelinol, alcohol coniferyl, 7αhydroxyl-3β-sistosterol và scopoletin.

Các hoạt chất chứa trong Dây lủa ít gân:

  • Neral chiếm 22,7%
  • Nerolidol chiếm 32,1%
  • Spathoulenol chiếm 12,7%
  • B-myrcen chiếm 15,9%
  • Các thành phần khác chiếm 0,1-1,5%.

Tính vị

Vị hơi chát, tính bình giúp bổ can thận kháng viêm.

Công dụng

Giảm đau nhức xương khớp

Trong Đông y, Dây lửa ít gân là một trong những vị thuốc giúp khỏe gân, bổ cốt. Tương tự như rễ nhàu, rượu mú từng hỗ trợ điều trị bệnh nhân thường xuyên đau nhức xương khớp, tê bì chân tay, mỏi gối, phong thấp

Tăng cường sinh lý phái mạnh

Người dân cũng thử dùng để uống, để tăng cường sinh lực cho nam, tăng khả năng thụ thai cho phụ nữ.

Tác dụng chống oxi hóa

Dây lửa ít gân có chứa Spathoulenol giúp chống oxi hóa, làm tăng sự hấp thu iod ở tuyến giáp, làm chậm quá trình vận chuyển các acid hữu cơ. Tuy nhiên không được sử dụng quá nhiều Spathiulenol sẽ làm ảnh hưởng đến ngũ tạng.

Bảo vệ gan

Nerolidol có trong có tác dụng ngăn chặn sự phát của tế bào ung thư .

Lưu ý: Mú từn có hoạt chất sinh học có tác dụng hạ đường huyết, bảo vệ gan. Nhưng không nên tùy tiện thay thế thuốc hạ đường huyết đang dùng bằng thảo dược.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/day-lua-it-gan.html/feed 0
Sâm cau https://tracuuduoclieu.vn/sam-cau.html https://tracuuduoclieu.vn/sam-cau.html#respond Thu, 02 Dec 2021 01:42:33 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/sam-cau/ Sâm cau 1

Hình 1: Sâm cau (Curculigo orchioides Gaertn.)

Thông tin khoa học

  • Tên khoa học: Curculigo orchioides Gaertn.
  • Tên tiếng Việt: Sâm cau, Ngải cau, Tiên mao, Cồ nốc lan, Sâm đỏ, Thài lèng, Soọng cà (Tày), Nam sáng ton (Dao).
  • Họ Sâm cau (Hypoxidaceae)

Mô tả

  • Cây thảo, sống lâu năm, cao 20 – 30 cm, có khi hơn.
  • Thân rễ, hình trụ dài, mọc thẳng, thót lại ở hai đầu, mang nhiều rễ phụ có dạng giống thân rễ.
  • Lá mọc tụ họp thành túm từ thân rễ, xếp nếp như lá cau, hình mũi mác hẹp, dài 20 – 30 cm, rộng 2,5 – 3 cm, gốc thuôn, đầu nhọn, hai mặt nhẵn gần như cùng màu, gân song song rất rõ; bẹ lá to và dài; cuống lá dài khoảng 10 cm.
  • Cụm hoa mọc trên một cán ngắn ở kẽ lá, mang 3 – 5 hoa màu vàng; lá bắc hình trái xoan, đài 3 răng có lông; tràng 3 cánh nhẵn; nhị 6, xếp thành hai dãy, chỉ nhị ngắn; bầu hình thoi, có lông rậm.Quả nang, thuôn, dài 1,2 – 1,5 cm; hạt 1 – 4, phình ở đầu.
  • Mùa hoa quả: Tháng 5 – 7

Phân bố, sinh thái

Trên thế giới, Sâm cau phân bố ở một số tỉnh phía nam Trung Quốc, Lào, Việt Nam và một vài nước khác ở Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cây phân bố rải rác ở các tỉnh vùng núi, từ Lai Châu, Tuyên Quang, Cao Bằng. Trước năm 1980, các tỉnh Sơn La, Hòa Bình thường khai thác được nhiều cây thuốc này và hiện nay trở nên hiếm dần. Trước thực trạng này, công ty TNHH Tuệ Linh đã tiên phong phát triển một vùng trồng Sâm cau rộng 3 ha ở vùng núi Tây Bắc nhằm bảo vệ loại thảo dược quý này thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng đang cận kề áp sát.

Sâm cau là loại cây ưa ẩm, ưu sáng và có thể hơi chịu bóng, thường mọc trên những nơi đất còn tương đối màu mỡ trong thung lũng, chân núi đá vôi hoặc ven nương rẫy. Cây sinh trưởng tốt trong mùa mưa ẩm, phần thân rễ chính dạng củ, cắm sâu xuống đất, hoa quả hàng năm, khi già tự mở để hạt phát tán ra xung quanh.

Phân bố, sinh thái 1

Hình 2: Vùng trồng Sâm cau của công ty TNHH Tuệ Linh

Cách trồng

Sâm cau được nhân giống bằng hạt hoặc bằng mầm. Người dân thường đánh cây con mọc hoang về trồng. Rễ sâm cau hình trụ, ăn sâu, khi đánh chú ý dào sâu lấy hết rễ. Nên đánh khi cây còn nhỏ. Thời vụ trồng tốt nhất vào mùa xuân. Các mùa khác cũng trồng được nhưng phải chăm sóc nhiều hơn.

Sâm cau sống rất khỏe, lá xanh tốt quanh năm, vì thế có thể trồng trong chậu, trong bồn như cây xanh. Nếu trồng ở đất, có thể trồng với khoảng cách 30cm * 40cm hay 30cm * 50cm. Cần bón một ít phân lót cho đất tơi xốp, thỉnh thoảng xới xáo, bón thêm phân. Thu hoạch vào cuối năm, đào lấy củ, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô, cấy giữ dùng dần.

Bộ phận dùng

Thân rễ, thu hái quanh năm, đào về rửa sạch ngâm nước vo gạo để khử bớt độc, rồi phơi khô.

Bộ phận dùng 1

Hình 3: Thân rễ sâm cau vừa được thu hoạch

Thành phần hóa học

Phân tích bột thân rễ được các thành phần sau: cao ether 1,28%; cao cồn 4,14%; cao nước 19,92%; tinh bột 43,48%; sợi 14,18%; tro 8,60%; tanin 4,15%. (The Wealth of India, vol V. 1950, p. 400)

Thân rễ sâm cau chứa các chất thuộc nhóm cycloartan triterpenic:

  • Misra Triguna N, Singh Ram S đã phân lập và xác định chất 24-methylcycloart-7-en-3-β-20-diol.
  • Xu junping, Xu Rensheng đã tách được các cycloartan glycosid là curculigo saponin A → F.G.H.I.J với cấu trúc của genin chung là curculigenin A được xác định là 3β, 10α, 16β-trihydroxycycloartan-24-on.
  • Các triterpen penta cyclic cũng được chiết xuất từ thân rễ sâm cau như acid 31-methyl-30-zo-20-ursen-28 oic.

Các phenyl glucosid và chlorophenyl glucosid curculigosid B, curculigin B và C có cấu trúc là:

  • 2-β-D-glucopyranosyloxy-5-hydroxybenzyl-2-methoxy-6hydroxybenzoat.
  • 24-dichloro-3-methyl-5-methoxyphenol-O-β-D-apiofuranosyl(1→6)-D-glucopyranosid; và 2,4,6-trichloro-3-methyl-5-methoxyphenol-O-C-D-xylopyranoyl (1 → 6)-β-O–glucopyranosid.
  • Curculigin A là một ví dụ về chlorophenyl glucosid và corchiosid A thuộc loại phelyl glucosid đều có ở thân rễ sâm cau.
  • Một số chất aliphatic như 25-hydroxy-33-methylpentatricontan-6-on, hentricontanol, và các hợp chất chứa nitơ như N-acetyl-N-hydroxy-2-carbomethoxy-2H-3,4,5,6-tetrahydro-1,2,3,5,6-oxatetrazin và N-N,N’.N’-tetramethylsuccinamid cũng đã được phát hiện trong thân rễ sâm cau.

Ngoài ra còn sucrose, sitosterol, stigmasterol và các hợp chất flavonoid như 5,7-dimethoxydihydromyricetin-3-O-α-L-xylopyranosyl-4-O-β-D-glucopyranosid, yuccagemin và lycorin.

  • Yamasaki Kazuya đã định lượng một số mẫu sâm cau của Trung Quốc thấy hàm lượng curculosid khoảng 2%.
  • Các chất curculigenin A, curculigol đã được nghiên cứu thấy có tác dụng chống độc gan.

Tác dụng dược lý

Rễ sâm cau thử nghiệm dưới dạng cao cồn có hoạt tính làm tăng khả năng thích nghi, chống viêm, chống co giật, an thần, có hoạt tính hormon sinh dục nam, và kích thích miễn dịch. Tuy nhiên, sâm cau vẫn được đánh giá cao nhất với tác dụng tăng cường chức năng sinh lý, chống bất thường tinh trùng giúp tăng cường khả năng tình dục, sinh sản của nam giới. Cao nước của rễ có tác dụng phong bế thụ thể adrenergic alpha – 2, gắn với thụ thể của cholecystokin, ức chế hypoxanthin guanin phosphoribosyl transferase và gây tác dụng kích thích co bóp tử cung. Sau khi uống nước sắc rễ, có thể gặp phải tác dụng phụ sưng lưỡi.

Về tác dụng tăng cường chức năng sinh lý, chống bất thường tinh trùng:

Sâm cau lâu đời đã được tương truyền là cây gây bệnh “nhớ vợ”, các chiến sĩ, cán bộ công tác vùng biên giới được bà con dân tộc mời uống rượu sâm cau thì đều đòi về quê thăm nhà thăm vợ, có nhưng chiến sĩ cách nhà hàng trăm km cũng đòi về thăm vợ trong đêm. Chính vì câu chuyện ấy mà sâm cau được các quý ông truyền tai nhau rằng đây là loài cây gây bệnh nhớ vợ.

Nghiên cứu của TS. Bùi Thị Minh Giang có khẳng định, Sâm cau hay Tiên mao là loài có khả năng “tăng cường bản lĩnh phái mạnh” tốt nhất và cao hơn 1,5 lần các loài có tác dụng tương tự. Nghiên cứu với liều 100mg/kg thì thấy khả năng kích thích mạnh của Sâm cau thể hiện qua các chỉ số như: khả năng cương cứng tăng, hiệu quả chất lượng tăng, tần số tăng, khoảng thời gian giữa các lần cũng ngắn lại. Ngoài ra, các thông số về khối lượng cơ quan sinh sản, sự sinh tinh đều cho thấy sự tăng rõ rệt (~150%)

Tác dụng kích thích tình dục, chống bất thường tình trùng của Sâm cau càng rõ ràng hơn khi được thử nghiệm điều trị cho 50 cặp vợ chồng vô sinh với người nam giới có các chứng giảm tinh trùng, tinh trùng chết, tinh trùng kém chuyển động và tinh trùng yếu. Bài thuốc với thành phần chính là Sâm cau cùng 2 vị thuốc dẫn khác được bào chế cho nam giới sử dụng trong 3 tháng. Kết quả có sự thay đổi đáng kể về khả năng sống của tinh trùng sau một tháng điều trị, trong đó có sự thay đổi về đặc tính hình thái của tinh trùng. Ở tháng thứ 2 có sự gia tăng về số lượng và khả năng chuyển động của tinh trùng, đồng thời số lượng tinh trùng non giảm. Sau 3 tháng điều trị, tinh trùng bình thường phát triển ở 80% bệnh nhân nam giới, tương hợp với sự phát triển thai nghén ở người phụ nữ; 15 trong 50 bệnh nhân điều trị đã có con.

Về tác dụng tăng khả năng thích nghi, kích thích miễn dịch, chống loãng xương:

Những hợp chất phenolic trong Sâm cau đã được  chứng minh là có khả năng kích thích cả 2 đáp ứng miễn dịch: miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào, nó cũng kích thích đáp ứng miễn dịch bằng cách tác động cả trên các đại thực bào và các tế bào lympho. Ngoài ra chính những hợp chất này còn có tính chất chống oxy hóa mạnh và chống loãng xương. Điều đó giúp nam giới luôn có sức khỏe tốt, thể chất tốt – điều mấu chốt cho đời sống tình dục khỏe và vững bền. Nghiên cứu dược lý cho thấy các curculigosaponin C và F có thể thúc đẩy sự tăng sinh tế bào lympho ở lách chuột nhắt trắng rõ rệt và các curculigosaponin F và G làm tăng trọng lượng tuyến ức in vivo ở chuột nhắt trắng. Curculigosid từ rễ sâm cau có tác dụng kích thích miễn dịch và bảo vệ cơ thể. Các chất này được coi là thành phần đặc trưng của rễ sâm cau. Cao cồn 50° sâm cau có tác dụng hạ đường máu, chống co thắt hồi tràng cô lập chuột lang gây bởi acetylcholin và histamin, và có tác dụng ức chế sự phát triển của sarcom 180 ở chuột nhắt trắng.

Tính vị, công năng

Sâm cau vị cay tính ấm, có độc, quy vào hai kinh tỳ và thận, có tác dụng thêm sức nóng, làm hết lạnh, cường dương, mạnh gân xương.

Công dụng

Sâm cau được dùng chữa nam giới tinh lạnh, liệt dương, người già đái són, lạnh dạ, kém ăn, tê thấp, lưng gối vận động khó khăn. Liều dùng mỗi ngày 12 – 20g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu uống. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị khác. Còn dùng chữa hen và tiêu chảy. Nhân dân ở một số vùng dân tộc thiểu số dùng rễ củ sâm cau làm thuốc bổ. Dùng ngoài, rễ giã nát đắp chữa lở loét.

Trong y học cổ truyền Trung Quốc, nước sắc thân rễ sâm cau tán bột được dùng làm thuốc bổ chung, thuốc hồi sức để điều trị suy nhược cơ thể, đau lưng, viêm khớp, viêm thận mạn tính. Thuốc còn làm tăng huyết áp, và điều kinh.

  • Ở Ấn Độ, Nepal và Philipin, thân rễ sâm cau được dùng làm thuốc lợi tiểu và kích dục chữa bệnh ngoài da, loét dạ dày tá tràng, trĩ, lậu, bạch đới, hen, vàng da, tiêu chảy và nhức đầu.
  • Ở Ấn Độ, người ta còn dùng thân rễ sâm cau để gây sẩy thai dưới dạng thuốc sắc, hoặc thuốc bột uống với đường trong một cốc sữa. Rễ sâm cau là một thành phần trong bài thuốc cổ truyền Ấn Độ gồm 10 dược liệu trị sỏi niệu. Dùng ngoài, rễ sâm cau giã nát, đắp chữa ngứa và bệnh ngoài da.
  • Ở Thái Lan, thân rễ sâm cau là thuốc lợi tiểu và trị tiêu chảy.
  • Ở Papua Niu Guiê, thân rễ và lá sâm cau được hơ nóng cho mềm, rồi chà xát lên cơ thể làm thuốc tránh thụ thai.

Ghi chú: Dùng sâm cau liều cao kéo dài sẽ gây cường dương, làm tinh hao kiệt sức. Người hư yếu không dùng.
Xem thêm: [Video] Sâm cau – Lựa chọn sao cho đúng!

Bài thuốc có sâm cau

  • Chữa liệt dương do rối loạn thần kinh chức năng: Sâm cau 8g; sâm Bố Chính, hoài sơn, trâu cổ, kỷ tử, ngưu tất, tục đoạn, thạch hộc, mỗi vị 12g; cam thảo nam, cáp giới, ngũ gia bì, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
  • Chữa phong thấp, lưng lạnh đau, thần kinh suy nhược, liệt dương: Sâm cau 50g thái nhỏ, sao vàng, rượu trắng 650ml. Ngâm trong 7 ngày hơn. Mỗi ngày uống hai lần vào trước hai bữa ăn chính, mỗi lần 25 – 30ml.
  • Chữa nam giới liệt dương, phụ nữ tử cung lạnh khó thụ thai: Sâm cau 20g; thục địa, ba kích, phá cố chỉ, hồ đào nhục, mỗi vị 16g; hồi hương 4g. Sắc uống ngày một thang.
  • Chữa tê thấp, đau mình mẩy: Sâm cau, hy thiêm, hà thủ ô, mỗi vị 50g, rượu trắng 650ml, Ngâm trong 7 ngày hay hơn. Ngày uống 50ml chia hai lần.
  • Chữa sốt xuất huyết: Sâm cau 20g sao đen, cỏ nhọ nồi 12g, trắc bách diệp 10g sao đen, quả dành dành 8g sao đen. Sắc uống ngày một thang.
  • Chữa huyết áp cao, nhất là phụ nữ ở thời kỳ mãn kinh: Sâm cau, ba kích, dâm dương hoắc, tri mẫu, hoàng bá, đương quy, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

Một số sản phẩm có thành phần Sâm cau trên thị trường hiện nay

Sản phẩm Sâm nhung cường lực Tuệ Linh

♦ Sản phẩm Sâm nhung cường lực Tuệ Linh là sự kết hợp hoàn hảo bộ 3 dược liệu chính Nhân sâm, Nhung hươu Bắc Cực và Sâm cau.

♦ Giúp tăng cường nội tiết tố nam một cách tự nhiên,cải thiện chức năng sinh lý, chậm mãn dục nam giới. Bổ thận tráng dương, tăng cường sinh lực, chống suy nhược cơ thể, giảm mệt mỏi, hồi phục nhanh thể lực.

Bài thuốc có sâm cau 1

Hình ảnh sản phẩm Sâm nhung cường lực Tuệ Linh

Sản phẩm Cao sâm cau Tuệ Linh

♦ Cao sâm cau Tuệ Linh với thành phần 100% cao khô dược liệu nguyên chất.

♦ Dược liệu được sản xuất trên dây chuyền hiện đại đảm bảo chất lượng và hàm lượng hoạt chất cao nhất.

♦ Cao sâm cau là lựa chọn thảo dược số 1 ở nam giới lạnh tinh, liệt dương giúp tăng cường chức năng thận, tán ứ trừ tê, mạnh gân cốt.

Bài thuốc có sâm cau 2

Hình ảnh sản phẩm Cao sâm cau Tuệ Linh

Trên đây là một số thông tin về hình ảnh, liều lượng công dụng của cây Sâm cau. Nếu cần tư vấn và tìm hiểu thêm về cây Sâm cau và các loại cây dược liệu khác bạn có thể liên hệ qua số tổng đài tư vấn 1800.1190 (miễn phí tư vấn) hoặc đặt câu hỏi của bạn ở mục ý kiến ở cuối bài viết, Tra cứu dược liệu sẽ giải đáp những thắc giúp bạn có thêm những thông tin đáng tin cậy.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/sam-cau.html/feed 0
Thạch hộc https://tracuuduoclieu.vn/thach-hoc.html https://tracuuduoclieu.vn/thach-hoc.html#respond Tue, 16 Apr 2019 02:22:42 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/?post_type=dl&p=31523

Mô tả

  • Cây thảo phụ sinh. Thân mọc đứng, cao 30 – 60cm, hơi dẹt, có rãnh dọc, chia nhiều đốt gần sít nhau, phía ngọn dày hơn. Lá không cuống, mọc thành hai dãy, thuôn hẹp, dài 8-12 cm, rộng 2 – 2,5 cm, gốc thót lại, đầu tù tròn, gân chính 9 – 11, hai mặt nhẵn.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ những lá đã rụng thành chùm thưa; hoa to, 2 – 4 cái, màu hồng; lá đài 3, thuôn hẹp; cánh hoa 3, mọc xen kẽ, rộng hơn lá đài, cánh môi cuộn hình phễu, đầu nhọn, mép uốn lượn, họng có đốm màu tím sẫm; lá dài và cánh hoa dài bằng nhau, cột thấp, phần phụ vòi vượt hơn phần phụ lưng, bao phấn có nắp.

Phân bố, sinh thái

Dendrobium Sw. là một chi lớn, gồm nhiều loài phân bố rải rác khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt tập trung từ Đông Á đến Đông Nam Á và Nam Á. Ở Việt Nam, chi này có khoảng 100 loài, nhiều loài có hoa đẹp và được dùng làm thuốc, trong đó có thạch hộc. Trên thế giới, thạch hộc có vùng phân bố tương đối rộng rãi ở nhiều nước thuộc châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Ấn Độ, Mianma, Butan, Nepal… Ở Việt Nam, thạch hộc có ở các tỉnh miền núi phía bắc, từ Nghệ An trở ra. Ở miền Nam, cây thường mọc ở một số vùng núi cao từ 1000 m trở lên như Ngọc Linh, Bi Đúp, Langbian… Thạch hộc thường mọc bám (phụ sinh) trên thân các cây gỗ hoặc trên đá ở các loại hình rừng kín thường xanh và rừng cây lá rộng ẩm trên núi đá vôi.

Cây đặc biệt ưa ẩm và chịu bóng, sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng núi có nhiệt độ trung bình năm từ 15 đến 22°c. về mùa đông, cây có thể chịu được ở nhiệt độ dưới 0°c. Tuy nhiên, khi đưa thạch hộc về trồng ở những tỉnh xung quanh Hà Nội, có nền nhiệt độ 22°c, cây vẫn mọc tốt và ra hoa nhiều. Trong tự nhiên, hàng năm sau khi có hoa, vào khoảng tháng 4-5, cây thường mọc lên nhiều chồi thân. Loại chồi này sinh trưởng, phát triển nhanh trong mùa xuân – hè, đến mùa xuân năm sau thường có hoa. Cá biệt có một số chồi ra muộn vào mùa hè – thu, đầu năm sau vẫn chưa thấy ra hoa. Đăc biệt, khi cây có hoa vẫn còn lá xanh. Sự rụng lá hàng loạt chỉ xảy ra trên những nhánh đã ra hoa. Những nhánh này trở nên già cỗi và tàn lụi không còn khả năng ra hoa tiếp lần thứ hai. Việt Nam vốn là nơi có nguồn thạch hộc khá phong phú. Những tỉnh có nhiều loại cây này, như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình… Hiện nay, việc khai thác bừa bãi và nạn phá rừng đã làm cho trữ lượng của cây bị giảm sút và hiếm dần. Thạch hộc đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1996).

Bộ phận dùng

Thân một số loài trong chi Dendrobium thu hái vào tháng 6-10, loại bỏ gốc rễ, lá, rửa sạch đất cát, đem đồ qua hơi nước rồi phơi hay sấy khô. Thạch hộc thu mua ở Việt Nam thuộc 2 loài:

Thạch hộc dẹt (Dendrobium nobile Lindl.) hình thoi dài, to bản, mập, màu vàng tươi. – Kim thoa hoàng thảo (D. sp.) hình sợi tròn nhỏ, màu vàng kim loại, mềm. (Thực hành dược khoa, 1972). Dược điển Trung Quốc 1997 (bản in tiếng Anh) dùng nhiều loài làm thạch hộc như D. loddigesii Rolfe, D. fimbriatum Hook. var. oculatum Hook., D. chrysanthum Wall., D. candidum Wall. ex Lindl., D. nobile Lindl.

Thành phần hóa học

Thạch hộc chứa alcaloid sesquiterpen, dendrobin (alcaloid chính), nobilin, dendro xin. dendramin. dendrin, 8-hydroxydendroxin,  3-hydroxy – 2 – oxodendrobin, 6-hydroxydendroxin.

Hàm lương dendrobin ở cây trồng là 0,58% (ở thân) và 0,6% (lá) và ở cây hoang dại là 3.2% (ở thân), 0.8% (lá) và 0,08% (rễ).

Thạch hộc còn có một số alcaloid bậc 4 như N-methyldendrobinium, N-isopentenyl dendrobinium bromid, dendrobin N-oxyd. N-isopentenyl dendroxinium clorid và N-isopentenyl – 6 – hydroxydendroxinium clorid.

Tác dụng dược lý

Dendrobin có tác dụng giảm đau và hạ nhiệt nhẹ, gây tăng đường máu ở mức độ vừa, làm giảm hoạt động của tim với liều lán, giảm huyết áp, ức chế hô hấp, ức chế nhu động ruột thỏ cô lập, và gây co bóp tử cung cô lập chuột lang. Liều chết tối thiểu tiêm tĩnh mạch của dendrobin là 20 mg/kg ở chuột nhắt và chuột cống trắng; thuốc gây co giật nguồn gốc trung tâm trước khi gây chết. Tác dụng của các hoạt chất dendrobin và nobilin trên hoạt tính điện và trên sự khử cực của những phần cuối dây thần kinh sơ cấp dẫn tới gây bồi acid amin được nghiên cứu trên tủy sống ếch và so sánh với tác dụng của picrotoxin và strvchnin, là những chất gây co giật mạnh. Tác dụng của dendrobin tương tự về mặt định tính với strychnin, nhưng có phần khác so với picrotoxin. Phenanthreu có tác dụng độc hại tố bào đối với các dòng tế bào carcinom phổi người, ung thư tuyến buồng trứng người, và bệnh bạch cầu tiền tủy bào người. Một trong hai phenanthren nàv có hoạt tính chống khối u, làm tăng thời gian sống của chuột nhắt trắng được cấy 1 x 106 tế bào sarcom 180. Cao methanol thạch hộc có tác (lụng ngăn chặn sự biểu hiện gen umu của phản ứng SOS ở Salmonella typiùmurium TA 1535/pSK 1002 đối với chất gây đột biến furylfuramid. Hoạt chất gigantol của thạch hộc có tác dụng chặn hoạt tính gây phản ứng SOS của furylfuramid trong thử nghiệm umu. Sự biểu hiện gea bị ức chế 90% ở nồng độ < 0,73 mnol/ml, và liều ức chế ID5ux là 0,35 mnol/ml. Với sự tham gia của các enzvm chuyển hóa của gan, gigantol chặn hoạt tính gây phản ứng SOS của chất Trp-P-1 trong thử nghiệm umu. Sự biểu hiện gen bị ức chế 91% ở liều < 0,73 |j.mol/ml, và liều ức chế ID50 là 0,32 |J.mol/mI. Trong thử nghiệm umu, gigantol có tác dụng ngăn chặn hoạt tính gây phản ứng SOS bởi chiếu tia tử ngoại. Sự biểu hiện gen bị ức chế 84% ở liểu < 0,36 (imol/ml, và liều ức chế ID50 là 0,17 ị-irnol/ml. Gigantol có tác dụng kháng đột biến đối với furylfuramid và Trp-P-1 trong thử nghiệm Ames dùng Salmonelìa typliimurium TA 100.

Tính vị, công năng

Thạch hộc có vị hơi ngọt, mặn, tính hơi lạnh, vào ba kinh: phế, vị, thận, có tác dụng bổ âm, thanh nhiệt, ích vị, sinh tân dịch, chỉ khát, giúp tiêu hóa.

Công dụng

Thạch hộc được dùng chữa bệnh sốt nóng, khô cổ, ho, đau họng, khát nước thuộc chứng âm hư, nóng trong, chữa đau lưng và chân tay nhức mỏi, làm thuốc bổ ngũ tạng, chữa hư lao, ra mồ hôi trộm, nam giới thiểu năng sinh dục, di tinh, đau dạ dày ợ chua, sau khỏi bệnh bị hư nhược, gầy yếu, kém ăn. Ngày dùng 8 – 16g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các vị thuốc khác. Thạch hộc phối hợp với trần bì, thiên môn, tỳ bà diệp sắc uống chữa ho; với đẳng sâm, sa sâm, câu kỳ, ngưu tất để chữa gầy yếu, đau nhức xương.

Trong y học cổ truyền Trung Quốc, thạch hộc (lược coi là có tác dụng giúp ích cho dạ dày, làm tăng tiết dịch, dưỡng âm, trừ nhiệt, thuốc bổ và tăng sức lực toàn thân, chữa liệt dương, khát nước do âm hư hoặc suy giảm dịch cơ thể, ăn không ngon, buồn nôn, suy nhược cơ thể sau khi bị bệnh nặng, thị lực giảm. Liều dùng : 6 – 12g cây khô, hoặc 15 – 30g cây tươi.

Bài thuốc có thạch hộc

Chữa lao lực, gầy yếu, ho, sôi nóng: Thạch hộc 40g; thục địa 50g; khiếm thực 40g; hoài sơn 30g; quả dâu chín, tỳ giải, mỗi vị 20g. Thục địa chưng cách thủy rồi giã nhuyễn. Các dược liệu khác sấy khô, sao vàng, tán bột mịn, trộn chung với thục địa và mật ong làm thành viên. Ngày uống hai lần, mỗi lần 12g.

Chữa hư lao, người gầy mòn: Thạch hộc, đảng sâm, mỗi vị 6g; mạch môn, ngũ vị tử, chích cam thảo, kỷ tử, ngưu tất, đỗ trọng, mỗi vị 4g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa bệnh ôn nhiệt, nóng ẩm khô khát, gầy róc: Thạch hộc, mạch môn, huyền sâm, sa sâm nam, mỗi vị 20g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa bệnh âm hư hòa bốc, người gầy sạm đen, khô khát, thổ huyết, ra máu mũi: Thạch hộc, sinh địa, thục địa, đan sâm, sa sâm, thiên môn, ngưu tất, mỗi vị 16g; ngũ vị tử 3g. sắc uống ngày một thang.

Chữa suy nhược cơ thể sau khi mắc bệnh nhiễm khuẩn có sốt cao: Thạch hộc, mạch môn, tang diệp, sa sâm, mỗi vị 12g; bạch truật 10g, ngọc trúc 8g, ô mai 6g, ma hoàng 4g. Sắc uống ngày một thang

Chữa suy nhược cơ thể ở người suy nhược thần kinh, tăng huyêí áp, then kỳ hồi phục sau bệnh truyền nhiễm: Thạch hộc, mạch môn, quy bản, kỷ tử, hoài sơn, ngưu tất, thục địa, mỗi vị 12g; thiên môn, quả dâu, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa chứng ho, đầy hơi: Thạch hộc 6g; mạch môn, tỳ bà diệp, trần bì, mỗi vị 4g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa trẻ em khó thở: Cả cây thạch hộc giã nhỏ, trộn với mật ong, cho uống.

Chữa viêm họng khản tiếng, đau lưng gối, ù tai, hoa mắt, chóng mặt: Thạch hộc, mạch môn, thiên môn, thục dịa, kỷ tử, mỗi vị 12g; a giao, hạt tía tô, bạc hà, ngưu bàng tử, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa suy nhược thần kinh, hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, khó ngủ, ù tai, hay quên:

  • Thạch hộc 12g; câu đằng, long cốt, mỗi vị 16g; kỷ tử, sa sâm, mạch môn, hạ khô thảo, mẫu lệ, mỗi vị 12g; trạch tả, địa cốt bì, cúc hoa, táo nhân, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
  • Thạch hộc, thục địa, quy bản, kỷ tử, hà thủ ô đương quy, táo nhân, bá tử nhân, khiếm thực kim anh, liên nhục, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.
  • Thạch hộc, thục địa, quy bản, hoài sơn địa cốt bì, hà thủ ô,  đương quy, táo nhân, kim anh, liên nhuc mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa di mộng tinh:

  • Thạch hộc, mạch môn, sa sâm, kim anh khiếm thực, liên nhục, mỗi vị 12g; quy bản 8g. Sắc uống ngày một thang.
  • Thạch hộc, kim anh tử, mỗi vị 16g, sắc uống với bột hoài sơn, củ súng, mỗi vị 12g. Chia làm 3 lần trong ngày.

Chữa viêm gan virus cấp tính: Thạch hộc 12g, nhân trần 40g, sinh địa 24g; sừng trâu, chi tử, đan bì, mỗi vị 16g; hoảng liên, đan sâm, huyền sâm, thăng ma, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang

Chữa xơ gan cổ trướng: Thạch hộc, nhân trần, mỗi vị 20g; bạch mao căn, sa sâm, sinh địa, mã đề, trạch tả, mỗi vị 12g; chi tỏ 8g; hậu phác, trần bì, bán hạ chế, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày, một thang.

Chữa viêm bàng quang mạn tính: Thạch hộc 12g, tóm ngân hoa 20g; tỳ giải, mã đề, mỗi vị 16g; thục địa, sa sâm, ngưu tất, vỏ núc nác, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/thach-hoc.html/feed 0
Ba kích https://tracuuduoclieu.vn/ba-kich.html https://tracuuduoclieu.vn/ba-kich.html#respond Thu, 07 Jun 2018 19:01:40 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/ba-kich/ Ba kích có tên khoa học: Morinda officinalis How; tên khác ba kích, Ruột gà, Thao tày cáy (Mán), Ba kích thiên, Sáy cáy (Thái), Chầu phóng sì (Tày), Chổi hoàng kim, Chày kiằng đòi (Dao). Đây là cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn, thân non mầu tím, có lông, phía sau nhẵn, cành non, có cạnh, lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, thuôn nhọn, cứng.

Ba kích 1

Ba kích ( Morinda officinalis How)

Thông tin khoa học

  • Tên khoa học: Morinda officinalis How
  • Tên khác: Ba kích, Ruột gà, Thao tày cáy (Mán), Ba kích thiên, Sáy cáy (Thái), Chầu phóng sì (Tày), Chổi hoàng kim, Chày kiằng đòi (Dao).
  • Họ: Cà Phê (Rubiaceae.)
  • Phân bố: Cây mọc hoang và được trồng ở một số vùng đồi núi nước ta.

Mô tả

  • Cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn. Thân non mầu tím, có lông, phía sau nhẵn. Cành non, có cạnh. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, thuôn nhọn, cứng, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, lúc non mầu xanh lục, khi già mầu trắng mốc. Lá kèm mỏng ôm sát thân.
  • Cụm hoa mọc thành tán ở đầu, hoa nhỏ, lúc non mầu trắng, sau hơi vàng, tập trung thành tán ở đầu cành, dài 0,3-1,5cm, đài hoa hình chén hoặc hình ống gồm những lá đài nhỏ phát triển không đều. Tràng hoa dính liền ở phía dưới thành ống ngắn.
  • Quả hình cầu, khi chín mầu đỏ, mang đài còn lại ở đỉnh.
  • Mùa hoa: tháng 5-6, mùa quả: tháng 7-10.

Cây gây nhầm lẫn

Một số cây có thể nhầm lẫn với Ba kích tím do hình dáng cây

  • Ba kích lông (Morinda cochinchinensis Lour.).
  • Cây Mặt quỷ (Morinda villosa Wall. Ex Hook, f).
  • Cây có rễ nhỏ, cứng. Thân lá nhẵn. Hoa và quả tụ. Cây rất rễ nhầm lẫn với loài Ba kích quả tụ (Morinda sp.)
  • Dây Giang mủ (Zygostelma benthami Baillon var. lineare Cost).
  • Dây leo. Rễ có vỏ mỏng và cứng, lõi gỗ to. Lá không có lá kèm, có nhựa mủ trắng. Quả thuôn dài. Năm 1980, cây này đã được một số thương lái thu mua với cái tên “Ba kích”

Và một số loại cây khác do nhầm lẫn vì cùng tên gọi “dây ruột gà” trong nhân dân

  • Sam trắng (Bacopa monnieri Lour.).
  • Mộc thông (Clematis chinensis Osbeck).
  • Cây bụi, lá kép gồm 5 lá chét có cuống dài. Hoa màu trắng mọc ở kẽ lá. Quả bế, hình trứng, dẹt, có vòi dài, nhiều lông.

Nhầm lẫn do hình ảnh trên mạng

  • Viễn chí là một loại dược liệu rất dễ nhầm lần với Ba kích.
  • Viễn chí hình thái bên ngoài khá giống Ba kích, nhưng củ nhỏ hơn, thường có màu tím hoặc hơi đỏ, củ khá đồng nhất.
  • Chính vì màu đỏ tím của củ Viễn chí làm nhiều người mua hàng thiếu kinh nghiệm nhầm lẫn, dùng Viễn Chí ngâm rượu để cải thiện sinh lý nam nhưng không hề có tác dụng. Các hình quảng cáo trên mạng thường sử dụng cây viễn chí để lôi kéo khách hàng.

Các loại Ba Kích hiện có trên thị trường

  • Hiện tại, Ba kích được bán ở cả dạng dược liệu đã phơi khô và dạng tươi.
  • Ba kích tươi dễ dàng phân biệt nguồn gốc hơn, cũng dễ dàng thẩm định chất lượng hơn.
  • Ba kích tươi ở Quảng Ninh, Thái Bình… thường có củ lớn hơn ở Lào Cai, Hà Giang nhưng cả 2 loại này đều có vỏ vàng đậm, kích thước củ chủ <3cm, khúc khuỷu, phân nhiều đoạn, khác hoàn toàn với loại Ba kích Trung Quốc to, mập, kích thước lớn nhưng thường xốp và nhiều nước hơn.
  • Ba kích khô thường rất khó phân biệt, tuy nhiên Ba kích Trung Quốc do đã bị hấp chiết lấy hết dược chất nên thể chất thường nhũn và xốp.

Phân bố, hình thái

  • Chi Morinda L. có vài chục loài trên thế giới gồm phân lớn là là những cây bụi, gỗ nhỏ hoặc dây leo, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam hiện đã biết khoảng gần chục loài. Trong số 3 -4 loài dây leo, ba kích là một cây thuốc quan trọng. Ba kích mới chỉ thấy phân bố ở một số tỉnh trung du và miền núi Hòa Bình và Hà Tây. Một vài địa phương khác cũng đã phát hiện thấy cây Ba kích nhưng không đáng kể. Cây còn phân bố ở tỉnh Quảng Tây, Vân Nam…của Trung Quốc.
  • Ba kích là cây ưa ẩm, ưa sáng và hơi chịu bóng khi còn non. Trong tự nhiên thường thấy Ba kích trong các kiểu rừng thứ sinh hoặc rừng xen tre nứa (ít). Độ cao phân bố phổ biến thường dưới 300m, trên các loại đất feralit đỏ vàng hay đỏ và hơi chua. Đó cũng là một trong các lí do giải thích tại sao trồng Ba kích ở vùng đồng bằng thấy khó khăn. Cây sinh trưởng mạnh vào mùa hè, ra hoa quả trong vụ hè thu, đến mùa đông nếu gặp sương muối nhiều, cây bị rụng lá. Trong điều kiện trồng trọt, cây có giá thể leo và được chiếu sáng đầy đủ sẽ ra hoa nhiều nhưng lượng kết quả thấp. Cây Ba kích tự nhiên thường có ít hoa quả hơn cây trồng. Ba kích có khả năng tái sinh cây chồi tốt, sau khi bị chặt phá quá nhiều lần. Ngoài ra bằng cách giâm cành và thân rễ cũng tạo được những cây con.
  • Ba kích là một cây thuốc quý, vừa có giá trị sử dụng trong nước, vừa được xuất khẩu. Trước năm 1975, mỗi năm có thể thu mua được vài chục tấn. Việc khai thác quá mức và rừng thường xuyên bị tàn phá đã làm cho cây thuốc này trở nên hiếm. Tuy nhiên, Ba kích bước đầu đã được đưa vào trồng xen trong các mô hình vườn – trang trại ở trung du có kết qủa.

Cách trồng

Tuy là cây thuốc khá độc đáo của Việt Nam, nhưng ba kích vẫn chưa được trồng trên diện rộng và nghiên cứu sâu về mặt trồng trọt. Nhưng kết quả nghiên cứu bước đầu về mặt này có thể tóm tắt như sau:

  • Ba kích có thể trồng trên đất nhiều mùn, tơi xốp, hơi chua ở các vùng núi thấp và trung du, có nhiệt độ trung bình hằng năm từ 21 đến 23 độ C.
  • Cây có thể nhân giống bằng hạt hoặc bằng cành giâm. Khi quả chín thu hạt và đem gieo ngay trong vườn ươm sẽ cho hiệu quả tốt.
  • Cành bánh tẻ dài 20 -30cm, chứa 2 -4 mắt ngủ hoặc dài 50cm(cuộn lại) chọn từ cây khỏa mạnh, được giâm trong vườn ươm hoặc có thể trồng thẳng ra ruộng. Còn có thể sử dụng phần gốc sau khi đã thu hoạch rễ và cắt bỏ phần thân để làm giống.
  • Có nhiều vấn đề về nhân giống Ba kích chưa được nghiên cứu như những yếu tố liên quan đến vấn đề kết hạt, sức sống của hạt, năng suất và chất lượng cũng như kỹ thuật bảo quản hạt giống, biện pháp xử lý cành giâm để kích thích nảy mầm…
  • Về mặt thời vụ, gieo trồng trong vườn ươm nên tiến hành vào tháng 2 -3 còn thời vụ trồng ra ruộng có thể cả tháng 8 – 9. Vào các thời điểm này, không khí tương đối mát mẻ và đủ độ ẩm tạo thuận loại cho cây bám rễ. Việc chọn thời điểm nào để trồng còn phụ thuộc vào tuổi của cây giống: tốt nhất là cây giống có tuổi từ 7 – 12 tháng.
  • Đất trồng có thể là lên luống cao 20 -30cm, rộng 40cm. rộng 40cm nếu trồng 1 hàng hoặc rộng hơn nếu trồng 2 hàng. Sau đó bổ hốc cách nhau khoảng 1m và bón lót phân chuồng hoai mục ( 4 -8 tấn/ha) + phân vi sinh (400 – 800kg/ha). Sau khi cây bén rễ, cần định kỳ tưới thúc bằng nước phân chuồng hoặc phân đạm.
  • Là cây ưa sáng, nhưng ở thời kỳ cây con ba kích lại ưa bóng nên bắt buộc phải làm giàn che. Do đặc tính này ba kích có thể trồng xen trong vườn rừng khi cây chính chưa phát triển hoặc với các cây ngắn ngày như rau, đậu, khoai sọ hay các cây có yêu cầu đốn hàng năm như dâu, cốt khí củ. Khi cây lớn cần làm giàn leo.
  • Thời gian đầu, ba kích cần được tưới đủ ẩm và làm cỏ thường xuyên. Khi được một năm tuổi trở nên, hệ rễ của Ba kích bắt đầu phát triển, vì vậy không được cuốc xới quanh gốc mà phải làm cỏ bằng tay. Cây trồng được 2 năm bắt đầu ra hoa, kết quả. Những năm sau, số cây có hoa tăng dần. Cây có đủ giàn leo ra hoa nhiều hơn.
  • Thiên địch đáng kể nhất của Ba kích là dế mèn và chuột. Cần có những biện pháp thích hợp để phòng chống hai đối tượng này.
  • Về thời gian thu hoạch, các tài liệu hiện có chưa thống nhất; ít nhất là sau 3 năm mới có thể thu hoặc được, thời điểm thu hoặc thường là tháng 10 – 12 hoặc vào đầu xuân để tận dụng lấy giống trồng cho vụ sau.
  • Khi thu hoạch, dùng cuốc đào lấy toàn bộ rễ đem sơ chế.

Bộ phận dùng

  • Rễ phơi hay sấy khô của cây Ba kích (Morinda officinalis How.), họ Cà phê (Rubiaceae).

Tác dụng dược lý

  • Tăng sức dẻo dai: Với phương pháp chuột bơi, Ba Kích với liều 5-10g/kg dùng liên tiếp 7 ngày thấy có tác dụng tăng sức dẻo dai cho súc vật thí nghiệm (Trung Dược Học).
  • Tăng sức đề kháng: dùng phương pháp gây nhiễm độc cấp bằng Ammoni Clorua trên chuột nhắt trắng, với liều 15g/kg, Ba Kích có tác dụng tăng cường sức đề kháng chung của cơ thể đối với các yếu tố độc hại (Trung Dược Học).
  • Chống viêm: Trên mô hình gây viêm thực nghiệm ở chuột cống trắng bằng Kaolin với liều lượng 5-10g/kg, Ba Kích có tác dụng chống viêm rõ rệt (Trung Dược Học).
  • Đối với hệ thống nội tiết: thí nghiệm trên chuột lớn và chuột nhắt cho thấy Ba Kích không có tác dụng kiểu Androgen nhưng có thể có khả năng tăng cường hiệu lực của Androgen hoặc tăng cường quá trình chế tiết hormon Androgen (Trung Dược Học).
  • Nước sắc Ba Kích có tác dụng tương tự như ACTH làm cho tuyến ức chuột con bị teo (Trung Dược Học).
  • Nước sắc Ba Kích có tác dụng làm tăng co bóp của chuột và hạ huyết áp (Trung Dược Học).
  • Không có độc. LD50 của Ba Kích được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường uống là 193g/kg (Trung Dược Dược lý, Độc lý Dữ Lâm Sàng).

Thành phần hoá học chính

  • Trong ba kích có gentianine, carpaine, choline, trigonelline, yamogenin,gitogenine, tigogenin, vitexin, orientin, quercetin, luteolin, vitamin B1, rubiadin, rubiadin­1­methylether.
  • Trong rễ chứa thành phần hóa học chính là các hợp chất anthranoid: tectoquinon, 1 – hydroxyl – 2, 3­ dimethyl – anthraquinon….., ngoài ra còn antraglycozid, các hợp chất iridoid: asperulosid, morofficialosid….,đường, nhựa, acid hữu cơ, phytosterol và ít tinh dầu, morindin, rễ tươi có chứa vitamin C (Đỗ Tất Lợi, 2005).

Tính vị, Công năng

Ba kích có vị ngọt, tính ấm vào kinh thận. Giúp ôn thận, tráng dương, cường tráng cân cốt, khử phong thấp.

Công dụng

Trong nhân dân, ba kích được dùng phổ biến làm thuốc bổ tăng lực. Qua điều trị thử nghiệm đạt kết quả:

  • Đối với những bệnh nhân nam có hoạt động sinh dục không bình thường, Ba Kích có tác dụng làm tăng khả năng giao hợp, đặc biệt đối với những trường hợp giao hợp yếu và thưa. Ba Kích có tác dụng tăng cường sức dẻo dai, mặc dầu nó không làm tăng đòi hỏi tình dục, không thấy có tác dụng kiểu Androgen. Tuy không làm thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện hoạt động sinh dục cũng như điều trị vô sinh cho những nam giới có trạng thái vô sinh tương đối và suy nhược thể lực. Còn các trường hợp tinh dịch ít, tinh trùng chết nhiều, không có tinh trùng, không xuất tinh khi giao hợp thì xử dụng Ba Kích chưa thấy kết quả (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
  • Đối với cơ thể những người tuổi già, những bệnh nhân không biểu hiện mệt mỏi, ăn kém, ngủ ít, gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý gây nên và 1 số trường hợp có đau mỏi các khớp, Ba Kích có tác dụng tăng lực rõ rệt, thể hiện qua những cảmgiác chủ quan như đỡ mệt mỏi, ăn ngon, ngủ ngon và những dấu hiệu khách quan như tăng cân nặng, tăng cơ lực. Còn đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp thì sau khi dùng Ba Kích dài ngày, các triệu chứng đau mỏi giảm rõ rệt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
  • Theo tài liệu cổ, ba kích chữa dương ủy di tinh, phong thấp cước khí, gân cốt yếu mềm, lưng gối mỏi đau. Là một vị thuốc bổ trí não và tinh khí, di mộng tinh, phụ nữ kinh nguyệt không đều, bệnh phong thấp.

Kiêng kị: đối với bệnh nhân âm hư hỏa vượng, đại tiện táo kết không nên dùng.

Cách dùng, liều lượng

Ngày 8-16g dưới dạng thuốc sắc hay rượu thuốc. Phối hợp trong các phương thuốc bổ thận.

Chế biến:

  • Dùng nước Câu Kỷ Tử ngâm Ba Kích 1 đêm cho mềm, lấy ra ngâm rượu 1 đêm, vớt ra, sao với Cúc Hoa cho vàng thuốc, dùng vải lau sạch, để dành dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
  • Ngâm với rượu 1 đêm cho mềm, xắt nhỏ, sấy khô, để dành dùng (Bản Thảo Cương Mục).
  • Dùng Cam Thảo, giã dập, sắc, bỏ bã. Cho Ba Kích vào nấu cho đến khi xốp mềm, rút lõi, phơi khô. Liều lượng: 6kg Cam Thảo cho 100kg Ba Kích (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển)
  • Diêm Ba Kích: Trộn Ba Kích với nước Muối (20g Muối cho 1kg Ba Kích), cho vào chõ, đồ, rút lõi, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).
  • Rửa sạch, ủ mềm, bỏ lõi, thái nhỏ rồi tẩm rượu 2 giờ, sao qua hoặc nấu thành cao lỏng [1ml = 5g] (Phương Pháp  Bào chế Đông Dược Việt Nam).

Bài thuốc

1. Trị liệt dương, ngũ lao, thất thương, ăn nhiều, hạ khí:

Ba kích thiên, Ngưu tất (sống)  đều 3 cân ngâm với 5 đấu rượu, uống (Thiên Kim Phương).

2. Trị phụ nữ tử cung bị lạnh, kinh nguyệt không đều, xích bạch đới hạ:

Ba kích 120g, Lương khương 20g, Tử kim đằng 640g, Thanh diêm 80g, Nhục quế (bỏ vỏ)160g, Ngô thù du 160g. Tán bột. Dùng rượu hồ làm hoàn. Ngày uống 20 hoàn với rượu pha muối nhạt (Ba Kích Hoàn – Cục Phương).

3. Trị lưng đau do phong hàn, đi đứng khó khăn:

Ba kích 60g, Ngưu tất 120g, Khương hoạt 60g, Quế tâm 60g, Ngũ gia bì 60g, Đỗ trọng (bỏ vỏ, sao hơi vàng) 80g, Can khương (bào) 60g. Tán bột, trộn mật làm hoàn, uống với rượu ấm (Ba Kích Hoàn – Thánh Huệ Phương).

4. Trị tiểu nhiều:

Ích trí nhân, Ba kích thiên (bỏ lõi), 2 vị chưng với rượu và muối, Tang phiêu tiêu, Thỏ ty tử (chưng  với rượu). Lượng bằng nhau. Tán bột. Dùng rượu chưng hồ làm hoàn to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 12 viên với rượu pha muối hoặc sắc thành thang uống với muối ( Kỳ Hiệu Lương Phương).

5. Trị bạch trọc:

Thỏ ty tử (chưng rượu 1 ngày, sấy khô), Ba kích (bỏ lõi, chưng rượu), Phá cố chỉ (sao), Lộc nhung, Sơn dược, Xích thạch chi, Ngũ vị tử đều 40g. Tán bột, Dùng rượu hồ làm hoàn, uống lúc đói với nước pha rượu (Phổ Tế Phương).

6. Trị bụng đau, tiểu không tự chủ:

Ba kích (bỏ lõi), Nhục thung dung, Sinh địa đều 60g, Tang phiêu tiêu, Thỏ ty tử, Sơn dược, Tục đoạn đều 40g, Sơn thù du, Phụ tử (chế), Long cốt, Quan quế, Ngũ vị tử đều 20g, Viễn chí 16g, Đỗ trọng (ngâm rượu, sao) 12g, Lộc nhung 4g. Tán bột, làm hoàn 10g. Ngày uống 2-3 hoàn (Ba Kích Hoàn – Chứng Trị Chuẩn Thằng).

7. Trị mạch yếu, mặt trắng nhạt, buồn sầu ca khóc:

Ba kích (bỏ lõi), Hồi hương (sao), Nhục thung dung (tẩm rượu), Bạch long cốt, Ích trí nhân, Phúc bồn tử, Bạch truật, Mẫu lệ, Thỏ ty tử, Cốt toái bổ (bỏ lông), Nhân sâm đều 40g. Tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-20g (Ba Kích Hoàn – Y Học Phát Minh).

8. Trị Thận bị hư hàn, lưng và gối đau, liệt dương, tiểu nhiều, không muốn ăn uống, xương khớp yếu, đứng ngồi không có sức, bàng quang bị yếu lạnh, vùng rốn và bụng đầy trướng:

Ba kích 30g, Bạch linh 22g, Chỉ xác 22g, Hoàng kỳ 22g, Lộc nhung 30g, Mẫu đơn 22g, Mộc hương 22g, Ngưu tất 22g, Nhân sâm22g, Nhục thung dung  30g, Phụ tử  30g, Phúc bồn tử 22g, Quế tâm 22g, Sơn thù 22g, Tân lang 22g, Thạch hộc 30g, Thục địa 30g, Thự dự 22g, Tiên linh tỳ 22g, Trạch tả 22g, Tục đọan 22g Viễn chí 22g, Xà sàng tử 22g. Tán bột, hoà mật làm hoàn. Ngày uống 16 – 20g với rượu nóng, lúc đói (Ba Kích Hoàn – Thái Bình Thánh Huệ Phương).

9. Trị thận bị hư lao, lưng và chân đau, chảy nước mắt sống, hoảng sợ, khát, ăn uống không tiêu, bụng ngực thường đầy trướng, tay chân tê đau, nôn ra nước chua, bụng dưới lạnh đau, tiểu són, táo bón:

Ba kích 30g, Bá tử nhân  22g, Bạch linh 22g, Đỗ trọng 22g, Ngũ gia bì 22g, Ngưu tất 22g, Nhục thung dung 30g, Phòng phong 22g, Phúc bồn tử 22g, Thạch hộc 22g, Thạch long nhục 22g, Thạch nam 22g, Thiên hùng 30g, Thiên môn 40g, Thỏ ty tử  30g, Thục địa30g, Thự dự  22g, Trầm hương 30g, Tục đoạn 30g, Tỳ giải22g, Viễn chí 22g, Xà sàng tử  22g. Tán bột, trộn mật làm hoàn, ngày uống 16 -20g với rượu nóng, lúc đói (Ba Kích Hoàn – Thánh Huệ Phương).

10. Trị nguyên khí bị hư thoát, mặt xạm đen, miệng khô, lưởi dính, hay mơ, hoảng sợ, chảy nước mắt sống, tai ù như ve kêu lưng nặng, đau, các khớp xương đau nhức, âm hư, ra mồ hôi trộm tay chân không có sức, tử cung bị lạnh, kinh nguyệt không đều xích bạch đới hạ:

Ba kích 90g, Lương khương 180g, Ngô thù 120g, Nhục quế 120g, Thanh diêm 60g, Tử kim đằng 500g.  Tán bột, trộn với rượu nếp làm hoàn. Ngày uống 16 – 20g với rượu hoà ít muối hoặc nước muối loãng (Ba Kích Hoàn – Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương).

11. Trị liệt dương:

Ba kích 30g, Đỗ trọng 30g, Ích trí nhân 30g, Ngũ vị tử 30g, Ngưu tất 30g, Nhục thung dung 60g, Phục linh 30g, Sơn dược 30g, Sơn thù 30g, Thỏ ty tử 30g, Tục đoạn 30g, Viễn chí  30g, Xà sàng tử 30g. Tán bột. Luyện mật làm hoàn, ngày uống 12 – 16 g với rượu, lúc đói (Ba Kích Hoàn – Ngự Dược Viện).

12. Trị bụng ứ kết lạnh đau, lưng đau, gối mỏi, 2 chân yếu, khớp xương đau, chuột rút, thận hư, liệt dương :

Ba kích 18g, Đương quy 20g, Khương hoạt 27g, Ngưu tất 18g,   Sinh khương  27g, Thạch hộc 18g, Tiêu 2g.  Giã nát, cho vào bình, thêm 2 lít rượu vào, đậy kín, bắc lên bếp, nấu 1 giờ, sau đó ngâm trong nước lạnh cho nguội. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 15  –  20ml (Ba Kích Thiên – Thánh Tế Tổng Lục).

13. Bổ thận, tráng dương, tăng trưởng cơ nhục, dưỡng sắc đẹp:

Ba kích (bỏ lõi ) 60g, Cam cúc hoa 60g, Câu kỷ tử 30g, Phụ tử (chế) 20g, Thục địa 46g, Thục tiêu 30g. Tán bột, cho vào bình, ngâm với 3 lít rượu. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15 –  20ml,  lúc đói (Ba Kích Thục Địa Tửu –  Nghiệm Phương)

14. Trị sán khí do Thận hư:

Ba kích thiên, Hoàng bá, Quất hạch, Lệ chi hạch, Ngưu tất, Tỳ giải, Mộc qua,  Kim linh tử,  Hoài sơn, Địa hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

15. Trị liệt dương:

Ba kích thiên, Bá tử nhân, Bổ cốt chỉ, Câu kỷ tử , Lộc nhung, Ngũ vị tử, Nhục thung dung, Sơn thù du (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

16. Trị mộng tinh:

Ba kích thiên, Bá tử nhân, Hoàng bá, Liên tu, Lộc giác, Phúc bồn tử, Thiên môn, Viễn chí (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

17. Trị liệt dương, di tinh, tiết tinh do Thận dương hư:

Thỏ ty tử, Nhục thung dung (Trung Dược Học).

18. Trị tiểu nhiều, tiểu không tự chủ do Thận dương hư:

Bổ cốt chỉ, Phúc bồn tử (Trung Dược Học).

19. Trị gân cơ sưng đau, gân cơ suy yếu, teo cơ, khớp đau mạn tính do Thận hư:

Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục Đoạn (Trung Dược Học).

20. Trị liệt dương, tảo tinh, tiết tinh, lưng đau, vô sinh (ở nữ) do Thận dương hư:

Ba kích thiên 12g, Ngũ vị tử 6g, Nhân sâm 8g, Thục địa 16g, Nhục thung dung, Long cốt, Cốt toái bổ đều 12g. Tán bột, trộn mật làm hoàn 12g. Ngày uống 2-3 lần  (Ba Kích Thiên Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

21. Trị lưng đau, di tinh, hoạt tinh do Thận hư:

Ba kích thiên, Đảng sâm, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử, Thần khúc đều 12g, Sơn dược 24g. Tán bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12g, ngày 2-3 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

22.  Trị người lớn tuổi lưng đau, chân tê, chân yếu, chân mỏi:

Ba kích thiên, Xuyên tỳ giải, Nhục thung dung, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, lượng bằng nhau, Lộc thai 1 bộ. Tán nhuyễn, trộn với mật làm hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày 2-3 lần với nước ấm  (Kim Cương Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

23. Trị phong thấp đau nhức, cước khí, phù:

Ba kích, Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục đoạn đều 12g, Tang ký sinh 10g, Sơn thù nhục 8g, Hoài sơn 16g. Sắc uống (Ba Kích Khu Tý Thang – Trung Dược Thường Dụng Lâm Sàng).

24. Trị huyết áp cao thời kỳ tiền mãn kinh:

Ba kích thiên, Tiên mao, Hoàng bá, Dâm dương hoắc, Tri mẫu, Đương qui, mỗi thứ 20 – 28g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

]]>
https://tracuuduoclieu.vn/ba-kich.html/feed 0
Nhục thung dung https://tracuuduoclieu.vn/nhuc-thung-dung.html https://tracuuduoclieu.vn/nhuc-thung-dung.html#respond Tue, 08 May 2018 20:52:37 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/nhuc-thung-dung/
  • Tên khoa học: Cistanche deserticola Y.C.Ma, họ Lệ dương (Orobanchaceae).
  • Tính vị, quy kinh: Cam, hàn, ôn. Vào các kinh thận, đại trường.
  • Vị thuốc nhục thung dung ít dùng, nhưng lại rất được sử dụng chữa những trường hợp yếu sinh lý, sinh dục. Sách thần nông bản thảo xếp vị nhục thung dung vào loại “thượng phẩm”
  • Mô tả cây

    • Vị nhục thung dung là toàn thân cây có mang lá vẩy Caulis
    • Cistanchis.

    Trên thị trường người ta khai thác:

    • Cây thung dung- Cistanche deserticola Y. G. Ma thuộc họ Lệ dương Orobanchaceae.
    • Cây mễ nhục thung dung có tên khoa học Cistanche ambigua G. Beck (Bge) cùng họ Lệ dương
    • Cây nhục thung dung có tên khoa học Cistanche salsa (C. A. Mey.) G. Bek., đều thuộc họ Lệ dương Orobanchaceae.

    Nhục thung dung không phải là một loài thực vật thông thường, mà là loài ký sinh, phải sống nhờ (ký sinh) vào cây khác. Mùa xuân đến, mầm cây nhục thung dung đâm thủng mặt đất, mọc nhô lên trên, nhìn giống như một cái chày với đầu hơi nhọn, bên ngoài phủ kín lớp lá vẩy màu vàng, lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, như ngọn tháp vàng, rất hoành tráng. Cây thường cao khoảng từ 15-30cm, có khi tới hàng mét. Vào các tháng 5, tháng 6 cây ra hoa dày đặc; hoa mọc ra từ chóp (phần ngọn), màu vàng nhạt, hình chuông, xẻ 5 cánh, cánh hoa màu xanh hoặc tím nhạt; tới các tháng 6, tháng 7 kết quả, nhỏ li ti, màu xám. Nhờ có lớp lá vẩy phủ kín toàn bộ bề mặt bên ngoài, nên tránh bị mất nước và có thể chịu đựng được điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở vùng hoang mạc, và được mệnh danh là “cây dũng sĩ trên hoang mạc”

    Phân bố thu hái và chế biến

    • Vị thuốc nhục thung dung hiện nay ta còn hoàn toàn phải nhập. Theo những tài liệu của Trung Quốc thì những tỉnh có Nhục thung dung là Nội Mông Cổ, Thiểm Tây, Cam Túc, Tân Cương…
    • Vì vị thuốc này nung núc những thịt, tính chất bổ lại hòa hoãn từ từ, do đó có tên này. Tại những nơi có cây, người ta thu hoạch vào hai mùa xuân và thu, nhưng tháng 3 đến tháng 5 thu hoạch là tốt nhất. Quá thời gian đó thì chất lượng kém Nếu thu hái vào mùa xuân, thì chỉ cần loại bỏ đất cát, để khô trong mát là được, còn nếu thu hoạch vào mùa thu, nước nhiều rất khó làm khô. Người ta cho vào hũ với muối và muối từ 1 đến 3 năm. Khi nào dùng làm thuốc thì rửa sạch muối mới dùng. Có khi người ta đun cách thủy với rượu để khi rượu cạn mới dùng. Cứ 1kg nhục thung dung dùng 0,3 lít rượu.

    Thành phần hóa học và tác dụng dược lý

    • Thành phần hóa học của Nhục thung dung rất phong phú có chứa các chất như: boschnaloside, orobanin, 8- epilogahic acid, betaine,… Còn chứa nhiều loại acid hữu cơ và trên 10 acid amin.
    • Theo các nghiên cứu dược lý, nhục thung dung là loại thuốc có tác dụng kiềm chế quá trình lão suy và kéo dài tuổi thọ, tăng thể lực, tăng cường khả năng miễn dịch, có tác dụng hạ huyết áp ở mức độ nhất định và có tác dụng như một loại hormon sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận, khắc phục tình trạng chức năng tuyến thượng thận bị suy giảm và dẫn tới các bệnh liên quan.

    Công dụng và liều dùng

    • Có tác dụng tư âm, bổ thận, ích tinh, huyết, tráng dương hoạt trường (mạnh dương trơn ruột). Dùng trong những trường hợp liệt dương, lưng gối lạnh đau (nam giới), vô sinh bạch đới khí hư (nữ giới), huyết khô, táo bón.
    • Ngày dùng 8-12g dưới dạng thuốc sắc, thuốc hoàn. Những người thận dương vượng, đại tiện lỏng, dương vật dễ cương lại di mộng tinh thì không dùng được.
    • Đơn thuốc có nhục thung dung dùng trong nhân dân:
    • Nhục thung dung 10g, sơn thù du 5g, thạch xương bồ 4g, phục linh 6g, thỏ ty tử 8g, nuớc 600ml, sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Hâm nóng thuốc khi uống. Chữa suy nhược thần kinh (Kinh nghiêm của Diệp Quyết Tuyền).
    ]]>
    https://tracuuduoclieu.vn/nhuc-thung-dung.html/feed 0
    Tỏa dương (Ngọc cẩu) https://tracuuduoclieu.vn/toa-duong.html https://tracuuduoclieu.vn/toa-duong.html#respond Sun, 06 May 2018 20:50:36 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/toa-duong/ Tỏa dương (Ngọc cẩu) 1

    Tỏa dương (Balanophora sp.)

    Thông tin khoa học

    • Tên khoa học: Balanophora spp.
    • Tên gọi khác: nấm ngọc cẩu, ngọc cẩu, gió đất, cây cu chó, củ ngọc núi, hoa đất, cây không lá, xà cô, ký sinh hoàn.
    • Họ Dó đất: Balanophoraceae

    Bộ phận dùng

    Toàn cây

    Mô tả cây

    Cây thảo, nạc mềm, nom như cái nấm, màu đỏ nâu, sống một năm hay nhiều năm, ký sinh trên thân rễ cây khác, thường là cây gỗ lớn trong rừng sâu. Thân thoái hóa thành củ nguyên hoặc phân nhánh, có nhiều hình dạng khác nhau, sần sùi, không có lá.

    Hoa đơn tính khác gốc, mọc thành cụm dày trông như cu chó, cụm hoa đực hình trụ, dài 10 -15cm, ở gốc có một vài lá bắc; bao hoa xẻ nhiều thùy (4-7) thùy dày và hẹp, dài bằng nhau, có nhị có bao phấn hính móng ngựa; cụm hoa cái hình thoi hoặc hình trứng, dài 2 – 3cm, không có bao hoa, trên cụm hoa có nhiều phần phụ hình chùy không sinh sản. Không có quả.

    Mùa hoa: tháng 10 -2.

    Phân bố sinh thái

    Tỏa dương là dạng hình thái tương đối khác biệt trong giới thực vật có hoa. Trên thế giới, có khoảng 20 loài, đều là những cây sống kí sinh trên rễ của những loài thực vật có hoa khác. Chúng phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Á, châu Phi và Australia. Một số loài phân bố cả ở vùng cận nhiệt đới và ôn đới ẩm.

    Theo Bertel Hansel (1973) ở Đông Dương có 8 loài, trong đó ở Việt Nam có 3 loài. Nhìn chung, các loài củ gió đất thường chỉ phát hiện thấy trong các loại rừng kín thường xanh ẩm hoặc rừng cây lá rộng núi đá vôi.

    • Khi chưa có hoa , toàn bộ thân dinh dưỡng là một hệ thống dạng sợi, ký sinh vào rễ của một số loài cây thuộc họ Moraceae, Sterculiaceae, Tiliaceae…
    • Cây đực và cây cái thường mọc lẫn với nhau. Do khả năng phát tán hạt hạn chế và sự phát triển của thân dưới dạng sợi nên tỏa dương thường mọc tập trung thành từng đám gần nhau.
    • Nơi đã phát hiện một trong 3 loài này mọc tập trung nhất là vùng núi Bát Đái Sơn, thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, độ cao khoảng 1600m. Hiện nay đã có 2 loại của tỏa dương được đưa vào sách đỏ Việt Nam.

    Thành phần hoạt chất

    Về thành phần hóa học sơ bộ thấy có nhiều chất màu anthoxyanozit, trong dịch chiết nước nấm tỏa dương đã phân lập 19 hợp chất gồm: balaxiflorins A và B, 3 hợp chất phenylpropanoid, 4 hợp chất lignan, 9 hợp chất tanin và acid gallic.

    Tác dụng dược lý, minh chứng khoa học

    Tỏa dương được nhân dân dùng làm thuốc bổ, kích thích ăn ngon miệng, chữa đau bụng, nhức mỏi chân tay, nhất là cho phụ nữ sau khi đẻ, người mới ốm dậy chóng lại sức, thường dùng thuốc rượu. Ở các tỉnh phía Bắc nước ta, sâm Tỏa dương còn được tương truyền với cái tên “cây gây tan của nát nhà” bởi lẽ Sâm tỏa dương có tác dụng kích thích tình dục quá mạnh, nên khi sử dụng Tỏa dương thì phải sử dụng 2 vợ chồng cùng lúc, nếu chỉ một trong 2 người sử dụng thì dễ dẫn đến hiện tượng quan hệ ngoài luồng, phá vỡ hạnh phúc gia đình.

    • Ở Malaysia, Tỏa dương được dùng làm thuốc kích dục. Trong đông y dùng tỏa dương để bổ thận tráng dương, ích tinh huyết, mạnh tình dục, bổ tỳ vị, nhuận tràng, thông tiểu.
    • Chủ trị yếu sinh lý, liệt dương, lãnh cảm, đau lưng, mỏi gối, biếng ăn.

    Ngày này, thông qua các nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu tại trường Đại học Dược Hà Nội, tỏa dương đã được chứng minh có tác dụng lên hành vi tình dục thông qua hoạt tính androgen (nội tiết tố) rất rõ ràng.

    • Kết quả nghiên cứu về tác dụng của dịch chiết nước tỏa dương trên hành vi tình dục cho thấy:
    • Trên đối tượng thử nghiệm bằng dịch chiết tỏa dương với 2 mức liều 280mg/kg và 1400mg/kg đều thấy các hành vi tình dục thay đổi. Các chỉ số như thời gian, độ cương cứng, chất lượng đều tăng đáng kể và có ý nghĩa thông kê. Ở cả 2 liều này đều không thấy xuất hiện bất cứ tác dụng không mong muốn nào.

    Công dụng

    • Bổ thận tráng dương.
    • Ôn trung táo thấp
    • Tán ứ trừ tê, mạnh gân cốt
    • Bồi bổ cơ thể, chống viêm, kích thích miễn dịch, chống co giật, an thần.

    Tỏa dương được nhân dân địa phương dùng làm thuốc bổ, kích thích ăn ngon miệng, chữa đau bụng, nhức mỏi chân tay, nhất là dùng cho phụ nữ sau sinh, mới ốm dậy chóng lại sức. Dạng dùng thông thường là rượu thuốc. Cây hái về rửa sạch, thái mỏng, sao qua, rồi ngâm rượu với tỉ lệ 1:5, trong một tháng hoặc càng lâu càng tốt. Rượu có màu đỏ sẫm, vị hơi chất đắng. Ngày uống 2 lần vào trước bữa ăn, mỗi lần 30ml.

    Ở Malaysia, tỏa dương còn được dùng làm thuốc kích dục.

    Đối tượng sử dụng

    • Nam giới tinh lạnh, liệt dương.
    • Phụ nữ đái đục, bạch đới.
    • Người già đái són lạnh bụng, kém ăn, thần kinh suy nhược.
    • Người phong thấp, lưng lạnh gối đau, vận động khó khăn.
    • Người bị suy nhược cơ thể, đau lưng, viêm khớp, viêm thận mạn tính.
    • Người mắc các bệnh ngoài da, vàng da, ngứa.

    Bài thuốc liên quan

    Chữa liệt dương: Toả dương 12g, thục địa 15g, sơn thù nhục 15g, sơn dược 15g, phục linh 12g, câu kỷ 15g, nhục thung dung 12g, dâm dương hoắc diệp 30g, ba kích nhục 12g, bạch nhân sâm 12g, lộc nhung 6g, sao táo nhân 12g, thỏ ti tử 12g, thiên môn đông 9g, cam thảo 9g. Tất cả đem tán mịn trộn mật làm thành viên, mỗi viên nặng 9g. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên, uống với nước đun sôi để nguội. Kiêng ăn thức ăn tanh, lạnh.

    Món ăn, bài thuốc hỗ trợ tráng dương: Toả dương 5g, nhục thung dung 5g, thịt dê 50g, bột mì 200g. Trước tiên sắc riêng toả dương và nhục thung dung, lấy nước thuốc này nhào với bột mì, cán mỏng, cắt thành sợi, cho vào nấu với thịt dê, nêm gia vị vừa miệng, làm thức ăn điểm tâm hằng ngày.

    Hoạt tinh, di tinh, sinh lý yếu, mệt mỏi: Tỏa dương 120g, tang phiêu tiêu 120g, long cốt 40g, bạch phục linh 40g. Tất cả tán mịn, viên to bằng hạt ngô, mỗi lần uống 15-20g với nước muối loãng. Ngày uống hai lần.

    Bổ thận, chữa đau lưng mỏi gối, các khớp đau nhức, đại tiện khô táo kết gây đau bụng: Tỏa dương, hoàng bá, quy bản, hoàng cầm, đỗ trọng, ngưu tất, tri mẫu, mỗi vị 16g; địa hoàng, đương quy, mỗi vị 10g; phá cố chỉ, tục đoạn, mỗi vị 8g. Tất cả các vị thuốc tán bột mịn, trộn đều với rượu và hồ hoàn thành viên, ngày uống 2 lần, mỗi lần 15-20g.

    Bài thuốc bổ thận tráng dương: (dùng cho người cao tuổi dương hư, thận suy, yếu mệt, liệt dương, di tinh kém ăn, mất ngủ): Toả dương 10g, nhân sâm 12g, hoàng kỳ 16g, đỗ trọng 16g, nhục thung dung 8g, thỏ ty tử 12g, xa sàng tử 12g, phúc bồn tử 12g, đương quy 12g, bạch truật 12g, thục địa 16g, ba kích 12g, dâm dương hoắc 12g, lộc nhung 12g, kỷ tử 12g, đại táo 5 quả, long nhãn 10g, cam thảo 6g, xuyên khung 8g, hà thủ ô đỏ 12g. Tất cả cho vào 750ml nước vào sắc kỹ còn 250ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống 7 thang liền thì cơ thể sẽ khoẻ, ăn ngon, ngủ yên, dai sức hết mệt mỏi di tinh, liệt dương.

    Cùng bài thuốc trên với số lượng gấp 5 lần mỗi vị cho vào 5 lít rượu, ngâm trong 3 tuần, chắt ra, cho thêm 500ml mật ong loại tốt, mỗi ngày uống 3 lần trước bữa ăn, mỗi lần 20 – 30ml.

    Chữa xuất tinh sớm: Thục địa 30g, tỏa dương 20g, đỗ trọng 30g, đuôi lợn 150g, gừng tươi 15g, đại táo 8 quả. Ðuôi lợn cạo bỏ lông, rửa sạch, chặt thành từng khúc. Gừng tươi giã nát. Các vị thuốc rửa sạch. Tất cả cho vào nồi hầm lửa nhỏ trong 2,5-3 giờ là được, cho thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Bài thuốc có công dụng: Tư bổ thận tinh, dùng cho những người bị chứng xuất tinh sớm với các triệu chứng như xuất tinh sớm, tinh dịch ít và loãng, cơ thể hao gầy, suy giảm ham muốn tình dục, da mặt nhợt nhạt, tóc rụng nhiều, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng loãng, chất lưỡi nhợt, thường có bệnh mạn tính kèm theo như tiểu đường, u phì đại tiền liệt tuyến mạn tính, suy giảm công năng tuyến thượng thận…

    Xuất tinh sớm và liệt dương: Toả dương 20g, tang thầm (quả dâu tằm chín đen) 20g. Hai thứ tán nhỏ, hãm trong phích nước sôi với 10g mật ong. Sau 15 phút là uống được. Uống thay nước trà hàng ngày. Chú ý, người bị tiêu chảy không nên dùng loại nước này.

    Phục hồi sức khoẻ cho phụ nữ sau khi sinh: Toả dương sau khi thu hái về, tước bỏ những phiến của lá bắc và bao hoa, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô, sao qua, rượu 35 – 40 độ. Cứ 1 phần toả dương, 5 phần rượu. Ngâm trên 1 tháng mới dùng được, hoặc càng lâu càng tốt. Khi đó rượu có màu đỏ sẫm, vị hơi đắng, chát. Nếu khó uống có thể cho thêm ít đường hoặc mật ong cho dễ uống. Ngày uống 2 lần trước bữa ăn, mỗi lần uống 1 chén con (khoảng 30ml).

    Mới đây, công ty TNHH Tuệ Linh vừa nghiên cứu thành công và cho ra đời 1 công thức thuốc độc đáo mang tên Sâm Nhung Cường Lực Tuệ Linh với sự kết hợp của các thảo dược quý như tỏa dương, sâm cau, nhung hươu bắc cực có khả năng tăng cường sức khỏe toàn thân, tăng nội tiết tố nam một cách tự nhiên, cải thiện chức năng sinh lí và làm chậm quá trình mãn dục nam.

    Một số sản phẩm có thành phần Tỏa dương trên thị trường hiện nay

    Cao Tỏa dương Tuệ Linh

    ♦ Cao Tỏa dương với thành phần 100% cao khô dược liệu nguyên chất.

    ♦ Dược liệu được sản xuất trên dây chuyền hiện đại đảm bảo chất lượng và hàm lượng hoạt chất cao nhất.

    ♦ Tỏa dương là thảo dược quý giúp nhuận tràng, thông tiểu, bổ thận tráng dương, ích tinh huyết, mạnh tình dục, mạnh gân cốt, kích thích ăn ngon miệng.

    Bài thuốc liên quan 1

    Hình ảnh sản phẩm Cao tỏa dương Tuệ Linh

    Trên đây là một số thông tin về hình ảnh, liều lượng công dụng của cây Tỏa dương. Nếu cần tư vấn và tìm hiểu thêm về cây Tỏa dương và các loại cây dược liệu khác bạn có thể liên hệ qua số tổng đài tư vấn 1800.1190 (miễn phí tư vấn) hoặc đặt câu hỏi của bạn ở mục ý kiến ở cuối bài viết, Tra cứu dược liệu sẽ giải đáp những thắc giúp bạn có thêm những thông tin đáng tin cậy.

    ]]>
    https://tracuuduoclieu.vn/toa-duong.html/feed 0
    Hà thủ ô đỏ https://tracuuduoclieu.vn/ha-thu-o-do.html https://tracuuduoclieu.vn/ha-thu-o-do.html#respond Wed, 04 Apr 2018 00:57:01 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/ha-thu-o-do-2/ Thông tin khoa học
    • Tên khoa học: Reynoutria multiflora (Thunb.) Moldenke – Polygonum multiflorum Thunb.
    • Tên gọi khác: Dạ giao đằng, Má ỏn, Mằn măng ón, Khua lình
    • Họ Rau răm: Polygonaceae
    • Tên nước ngoài: Many – flowered knotweed, multiflorous knotweed (Anh); renouée multiflorée (Pháp)

    Mô tả

    • Dây leo bằng thân quấn, sống lâu năm. Thân mềm, nhẵn, mọc xoắn vào nhau. Rễ phình thành củ, màu nâu đỏ, củ nguyên có hình giống củ khoai lang.
    • Lá mọc so le, hình mũi tên, gốc hình tim, đầu thuôn nhọn, dài 5 – 8cm, rộng 3 – 4cm, 3 – 5 gân xuất phát từ gốc lá, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng; cuống dài khoảng 2 cm, phủ lông tơ, bẹ chìa mỏng, ngắn, có lông dài.
    • Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành thành chùy phân nhánh, dài hơn lá; lá bắc ngắn; hoa nhỏ nhiều, màu trắng; nhị 8, thường dính vào gốc của bao hoa.
    • Quả hình 3 cạnh, nhẵn bóng, nằm trong bao hoa, 3 mảnh ngoài phát triển thành những cánh rộng.
    • Mùa hoa: tháng 9 -11; mùa quả: tháng 12 – 2.

    Xem thêm: Nghiên cứu đặc điểm hình thái và giải phẫu loài hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson) ở Việt Nam

    Phân bố, sinh thái.

    Hà thủ ô phân bố rộng rãi ở nhiều nước cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ở Việt Nam, có 1 loài là cây hà thủ ô đỏ. Trên thế giới, hà thủ ô đỏ có ở Trung Quốc, Bắc Lào, Nhật Bản và Ấn Độ. Ở Việt Nam, hà thủ ô đỏ chỉ có ở một số tỉnh vùng núi cao phía bắc. Cây mọc nhiều ở Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La….

    Hà thủ ô là cây ưa khí hậu ẩm mát của vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới núi cao. Cây ưa sáng và có thể hơi chịu bóng. Nơi mọc tự nhiên thích hợp nhất là các quần thể rừng núi đá vôi.

    • Hà thủ ô đỏ ra hoa quả nhiều hàng năm. Sau khi quả già, phần thân leo trên mặt đất tàn lụi, hạt giống phát tán xung quanh và sẽ nảy mần vào mùa xuân hè năm sau. Hà thủ ô đỏ có khả năng tái sinh vô tính khỏe. Từ một đoạn thân hay đoạn củ là có thể tái sinh thành cây mới.
    • Nguồn hà thủ ô ở nước ta trước đây khá dồi dào. Qua hàng chục năm khai thác và nạn phá rừng làm nương rẫy vùng phân bố tự nhiên của cây bị thu hẹp rất nhiều.

    Cách trồng

    Nhân giống

    Theo kinh nghiệm của nhân dân ở Sơn La, Vĩnh Phúc, Bắc Giang hà thủ ô đỏ được trồng bằng củ có đường kính 3 -5 cm hoặc bằng dây bánh tẻ dài 30 – 4-cm, không có sâu bệnh.

    • Trồng bằng củ thì đặt củ theo hốc ở độ sâu 5 -7cm.
    • Trồng bằng dây thì đánh rạch, đặt dây và lấp đất như cách trồng khoai lang, để 1/3 dây thò lên khỏi mặt đất.

    Củ và dây đều trồng với khoảng cách 20 -35cm, tưới và giữ ấm cho tới khi cây mọc.

    Làm đất

    Đất đồi, gò, nương, các chân ruộng cao nhiều mùn, thoát nước, giữ ẩm rất tốt cho việc trồng hà thủ ô. Đất cần cày bừa, đập nhỏ, lên luống cao 25 -30cm, ruộng 40cm nếu trồng một hàng hoặc 70 – 80cm nếu trồng 2 hàng.

    • Lá cây lấy củ, hà thủ ô đỏ cần được bón nhiều phân.
    • Nên bón lót cho mỗi ha 20 -25 tấn phân chuồng, 200kg lân và 100kg kali.

    Cách trồng, bón phân

    Khi cây mọc, làm giàn cho dây leo. Dùng tre, sắt cắm chéo xành sẻ, cao 1,5 -2m deo theo luống.

    Hàng tháng làm cỏ, xới xào cho đất tơi thoáng, kết hợp bón thúc. Tốt nhất là dùng nước phân chuồng, nước giải pha loãng. Nếu cần, có thể tưới đạm pha với nồng độ 2%, mỗi lẫn 25kg đạm/ha. Việc bón thúc tiến hành từ tháng 3 -9 hàng năm, mỗi tháng thúc một lần.

    Sâu, bệnh hại

    • Hà thủ ô ít sâu bệnh, cần chú ý phòng trừ dễ hại mầm non.

    Thu hái

    • Cây trồng sau 2 -3 năm thì thu hoạch, để lâu quá củ dễ thối.
    • Năng xuất trung bình đạt 1,5 – 2,5 tấn củ khô/ha.

    Bộ phận dùng

    Rễ củ, hái vào mùa thu, đào về rửa sạch đất, bỏ rễ con. Củ nhỏ để nguyên, củ to bổ đôi hoặc bổ tư, phơi hay sấy khô. Nếu đồ chín rồi phơi khô thì tốt hơn. Loại nguyên củ của hà thủ ô đỏ có hình dáng hơi giống củ khoai, mặt ngoài có những chỗ lồi lõm đặc biệt, màu nâu đỏ.

    Hà thủ ô đỏ có thể chế biến như sau:

    Rễ củ được rửa sạch, ngâm nước vo gạo trong 24 giờ, rửa nước lại lần nữa. Cho dược liệu vào nồi, rồi cho nước đỗ đen đến ngập với tỷ lệ 1kg dược liệu và 100g đỗ đen và 2 lít nước. Nấu đến khi gần cạn, đảo luôn cho thuốc chín đều. Khi rễ củ đã mềm, lấy ra bỏ lõi. Nếu còn nước đậu đen thì tẩm phơi cho hết. Đồ phơi như vậy được 9 lần là tốt (cửu chưng, cửu sái). Khi dùng thái lát hoặc bào thành miếng mỏng.

    • Dược điển đông y Trung Quốc 1963 lại quy định thái hà thủ ô đỏ trộn với nước đậu đen và rượu cho vào thùng, đậy kín. Đun cách thuỷ cho đến khi rễ củ hút hết nước tẩm. Phơi khô.

    Thành phần hoá học

    Hà thủ ô đỏ chứa 1,7% antraglucosid trong đó có crysophanol, emodin, rhein, 1,1% protid, 42,2% tinh bột, 3,1% lipid, 4,5% chất vô cơ, 26,4% chất tan trong nước…

    Thành phần hoá học của hà thủ ô đỏ thay đổi trong quá trình chế biến. Theo y học cổ truyền, hà thủ ô đỏ sống chứa 7,68% tanin, 0,259% dẫn chất antraquinon tự do, 0,805% dẫn chất antaquinon toàn phần.

    Sau khi chế biến, dược liệu chứa 3,82% tanin, 0,113% dẫn chất antraquinon tự do, 0,25% antaquinon toàn phần. Chất phospholipid có 3,49% trong dược liệu thô và 1,82% trong dược liệu đã chế biến. Ngoài ra còn có các chất vô cơ K, Ca, Mn, Ni, Cr.

    Tác dụng dược lý

    • Hà thủ ô đỏ có tác dụng dược lý như sau: làm tăng đường máu ở thỏ; do chứa lecithin, nên có thể dùng trong suy nhược thần kinh và bệnh về thần kinh, giúp sinh huyết dịch, bổ tim, giúp cải thiện chuyển hoá chung; do chứa antraglucosid nên kích thích co bóp ruột, kích thích tiêu hoá, cải thiện dinh dưỡng.
    • Hà thủ ô đỏ có tác dụng nội tiết kiểu oestrogen, tác dụng kiểu progesteron nhẹ trên nội mạc tử cung, làm tăng trương lực cơ tử cung trong những thí nghiệm tử cung cô lập và ở nguyên vị trí, tăng tiết sữa và chống viêm.
    • Hà thủ ô đỏ có tác dụng nâng cao tỷ lệ sống hoặc kéo dài thời gian cầm cự đối với động vật đã tiêm liều độc nọc rắn hổ mang và tác dụng ức chế sự co thắt cơ trơn ruột cô lập gây bởi histamin và acetylcholin.
    • Hà thủ ô đỏ có tác dụng chống co thắt phế quản, kéo dài thời an toàn trong mô hình khí dung histamin.
    • Hà thủ ô đỏ có tác dụng chống viêm trên mô hình thực nghiệm, gây phù cấp tính và viêm mạn tính, gây rỉ dịch màng phổi bằng tinh dầu thông, gây viêm dị ứng và viêm khớp bằng BGC.

    Bài thuốc Lục vị tân phương trong đó có hà thủ ô đỏ và một số vị khác đã được thử dược lý và thấy có độc tính rất thấp, có tác dụng tăng số lượng hồng cầu, lợi tiểu, nhuận tràng và làm giảm sự hoạt động của động vật thí nghiệm. Trên lâm sàng, thuốc làm bệnh nhân bớt mỏi mệt, ăn ngon, ngủ được, đại tiện dễ dàng, giảm cảm giác nóng bức và tăng cân.

    Một đơn thuốc trong đó có hà thủ ô và một số vị khác đã được dùng điều trị 136 bệnh nhân viêm hắc võng mạc trung tâm thanh dịch đạt hiệu quả làm tăng thị lực tốt.

    Chế phẩm Ramazona bào chế từ phương thuốc “Phù tang thế bảo” của Tuệ Tĩnh, gồm rau má thìa, ngưu tất, ba kích, hà thủ ô đỏ đã được điều trị trên những bệnh nhân lớn tuổi và thấy thuốc có tác dụng tốt giúp nâng cao thể trạng và làm tâm thần sảng khoái, tăng protid máu, làm thay đổi tỷ lệ A/G theo chiều thuận lợi, giữ huyết áp ổn định ở người huyết áp cao. Không nên dùng cho người có rối loạn tiêu hoá.

    • Cao lỏng và những hợp chất antraquinon của hà thủ ô có tác dụng tăng cường nhu động ruột, nhuận tràng.
    • Dịch chiết methanol của hà thủ ô đỏ có tác dụng ức chế sự tăng cholesterol máu ở chuột ăn thức ăn có lượng cholesterol cao.
    • Ảnh hưởng của những thành phần stilben của hà thủ ô đỏ trên tổn thương gan gây ở chuột cống trắng bằng việc cho ăn dầu peroxy – hoá đã thể hiện ở chỗ piceid và 2, 3, 4, 5, 4′ – tetrahydroxy stilben – 2 – 0 – D – glucosid có tác dụng ức chế một phần sự tích luỹ các peroxyd lipid trong gan chuột. Những stilben glycosid ức chế sự tăng GOT và GPT trong huyết thanh chuột. Ngoài ra, resveratrol, piceid và 2, 3, 5, 4′ – tetrahydroxy stilben – 2 – 0 – D – glucosid còn ức chế sự peroxy – hoá lipid gây bởi ADP (adenosin – 5′ – diphosphat) và NADPH (nicotinamid adenin dinucleotid phosphat) ở những vi tiểu thể gan chuột.
    • Cao cồn hà thủ ô đỏ còn có tác dụng dự phòng xơ vữa động mạch, gây thực nghiệm theo cơ chế ngoại sinh trên chim cun cút. Tác dụng làm giảm cholesterol và triglycerid huyết thanh, ức chế sự tăng lipid máu và làm chậm sự phát triển xơ mỡ động mạch.

    Tính vị, công năng

    Rễ củ hà thủ ô đỏ có vị đắng chát, hơi ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ gan, thận, bổ máu, ích tinh tuỷ, hoà khí huyết, mạnh gân xương, nhuận tràng.

    Công dụng

    Theo y học cổ truyền:

    • Rễ hà thủ ô có tác dụng bổ máu, chữa thận suy, gan yếu, thần kinh suy nhược, ngủ kém, sốt rét kinh niên, thiếu máu, đau lưng mỏi gối, di mộng tinh, khí hư, đại tiểu tiện ra máu, khô khát táo bón, da mẩn ngứa không có mủ.
    • Uống lâu làm đen râu tóc đối với người bạc tóc sớm, làm tóc đỡ khô và đỡ rụng.
    • Hà thủ ô chế có tác dụng bổ gan, thận, ích tinh huyết, dùng làm thuốc an thần, bổ và tăng lực trong các chứng đau thân thể suy yếu, hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, nhức đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh.

    Liều dùng:

    • Ngày uống 6 – 20g, thuốc sắc, rượu thuốc hoặc bột.

    Trong y học cổ truyền Trung Quốc:

    • Hà thủ ô sống tươi và khô có tác dụng thông tiểu, giải độc, tiêu ung thủng, chữa táo bón cho phụ nữ sau khi đẻ hoặc người già, mụn nhọt, ghẻ lở, eczema, tràng nhạc. Có thể phối hợp với hạ khô thảo, kim ngân hoa.
    • Ở Ấn Độ, rễ hà thủ ô đỏ được dùng làm thuốc bổ, chống bệnh scorbut và làm đen tóc. Nó còn có tác dụng đối với bệnh tăng đường máu. Một chế phẩm của hà thủ ô đỏ được dùng cho phụ nữ sau khi đẻ.
    • Rễ hà thủ ô được dùng trong y học cổ truyền Trung Quốc và Nhật Bản để điều trị viêm da mủ, bệnh lậu, bệnh nấm gavut ở chân, bệnh viêm và tăng lipid máu.

    Bài thuốc có hà thủ ô đỏ

    Chữa phong lở ở đầu mặt, ngứa khắp mình (Hải Thượng Lãn Ông)

    Bài thuốc ngâm rượu:

    • Rễ gắm sao 120g, vỏ chân chim sao 100g, rễ rung rúc sao 80g, rễ cây bươm bướm sao 60g, rễ chiên chiến sao 60g, cây bấn đỏ sao 40g, cây bấn trắng sao 40g, quy bầu 40g, ô dược 40g, cỏ xước sao 40g, rễ bưởi bung sao 40g, rễ cỏ chỉ sao 80g, cỏ roi ngựa sao 24g, rễ cây chỉ thiên 24g, tang ký sinh 40g, hà thủ ô đỏ (9 lần đồ, 9 lần phơi) 60g.
    • Cách chế: Tán nhỏ các vị thuốc, gói vào một túi vải và bỏ vào hủ rượu, trát đất kín miệng, nấu lên trong thời gian cháy hết 1 nén hương, rồi chôn xuống đất 3 ngày đêm. Uống dần ít một vào lúc đói.

    Bài thuốc viên: (dùng kết hợp với bài thuốc trên)

    • Hà thủ ô đỏ 320g, cẩu tích 240g (tẩm rượu, nấu với nước muối, phơi khô), cốt toái bổ 160g (cạo lông, thái nhỏ, nấu với nước mật, phơi khô), thạch hộc 160g (rửa với rượu, chưng kỹ, phơi khô), quán chúng 100g (phơi trong râm, bỏ lông và vỏ), hy thiêm 160g (chưng với rượu và mật), lá ké đầu ngựa 40g (phơi râm), rễ cỏ xước 160g (dùng tươi, rửa sạch với rượu), vỏ chân chim sao 160g, rễ gắm sao 160g.
    • Cách chế: Các vị trên tán bột luyện mật làm viên, mỗi lần uống 8 – 12g với nước gừng hay rượu.

    Chữa đái rắt buốt, đái ra máu (Hải Thượng Lãn Ông)

    • Lá hà thủ ô đỏ tươi, giã vắt lấy nước, hoà với mật uống.
    • Lá hà thủ ô đỏ, lá huyết dụ, lượng bằng nhau. Sắc rồi hoà thêm mật ong uống.

    Chữa tóc rụng và bạc sớm, hồi hộp, chóng mặt, ù tai, hoa mắt, đau mỏi lưng khớp, táo bón

    Hà thủ ô chế, sinh địa, huyền sâm, mỗi vị 20g. Sắc uống.

    Chữa xơ cứng mạch máu người già, tăng huyết áp, nam giới chậm có con

    Hà thủ ô đỏ 20g, tang ký sinh, kỷ tử, ngưu tất đều 16g. Sắc uống.

    Chữa phong thấp đau lưng, viêm dây thần kinh hông, vận động khó khăn

    Hà thủ ô đỏ, ngưu tất 30g, cẩu tích 16g, huyết giác 12g, thiên niên kiện 12g, bạch chỉ 6g. Sắc uống.

    Thuốc bổ dùng cho người già yếu, thần kinh suy nhược, tiêu hoá kém

    Hà thủ ô đỏ 10g, đại táo 5g, thanh bì 2g, trần bì 3g, sinh khương 3g, cam thảo 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 – 4 lần uống trong ngày.

    Thuốc bổ khí huyết, mạnh gân cốt

    Hà thủ ô trắng và hà thủ ô đỏ với lượng bằng nhau, ngâm nước vo gạo 3 đêm, sao khô, tán nhỏ, luyện với mật làm thành viên to bằng hạt đậu xanh. Uống mỗi ngày 5 viên với rượu và lúc đói.

    Thất bảo mỹ nhiệm đơn, làm râu tóc trắng hoá đen, khoẻ gân xương, bền tinh khí, sống lâu

    • Hà thủ ô đỏ và trắng, đã chế biến, mỗi thứ 600g, xích phục linh và bạch phục linh, mỗi vị 600g. Cạo vỏ, tán bột, khuấy với nước trong, lọc lấy bột lắng ở dưới, nắm lại, tẩm với sữa người, phơi khô.
    • Ngưu tất 320g, tẩm rượu để 1 ngày, trộn với hà thủ ô và đồ với đỗ đen vào lần thứ 7, 8, 9 rồi phơi khô.
    • Đương quy 320g tẩm rượu phơi khô
    • Câu kỷ tử 320g tẩm rượu phơi khô
    • Thỏ ty tử 320g tẩm rượu cho nứt ra, giã nát phơi khô.
    • Bổ cốt chi 100g, trộn với vừng đen, sao cho bốc mùi thơm.
    • Tất cả giã nhỏ, trộn đều, thêm mật vào làm thành viên 0,5g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 viên. Sáng dùng rượu chiêu thuốc, trưa dùng nước gừng, tối dùng muối.

    Hà thủ ô hoàn (công dụng như trên)

    Hà thủ ô đỏ 1800g thái mỏng, ngưu tất 600g thái mỏng, đỗ đen một đấu to đãi sạch. Cho thuốc vào chõ, một lượt thuốc, một lượt đỗ, đồ tơi khi chín đỗ, rồi lấy thuốc ra phơi khô. Làm như vậy 3 lần rồi tán bột. Lấy thịt táo đen Trung Quốc trộn với bột thuốc, làm viên 0,5g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30 viên. Dùng rượu hâm nóng để chiêu thuốc.

    Hà thủ ô tán (công dụng như trên)

    Hà thủ ô đỏ cạo vỏ, thái mỏng phơi khô, tán bột. Ngày uống 4g vào sáng sớm, chiêu thuốc bằng rượu.

    Chữa viêm hắc võng mạc trung tâm thanh dịch

    Hà thủ ô đỏ 20g, thục địa 20g, trạch tả 12g, hoài sơn 12g, cúc hoa 8g, nấu với nước thành cao lỏng, uống.

    Viên bổ Ngũ hà (chữa thiếu máu, mệt mỏi, tiêu hoá kém)

    Mỗi viên có: Cao ngũ gia bì 0,1g, bột mã tiền 0,01g, bột hà thủ ô đỏ 0,01g, bột oxalat 0,03g, mật ong 0,01g

    Viên bổ hà thủ ô (chữa sốt rét gầy yếu, ăn ngủ kém, đau xương, di tinh, bạch đới) trẻ em chậm đi, chậm mọc răng

    Hà thủ ô đỏ 500g, sâm bố chính 300g, hạt sen 300g, cam thảo 100g, đại hồi 100g, quả thảo 100g. Ba vị hà thủ ô, sâm, hạt sen đồ chín. Cam thảo nướng vàng. Thảo quả bỏ vỏ, lấy nhân. Trộn chung, sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, luyện với mật ong làm viên bằng hạt đỗ đen. Trẻ em uống mỗi lần 6 – 15 viên (tuỳ tuổi), người lớn mỗi lần uống 20 viên.

    Món ăn chữa bệnh chứa hà thủ ô

    Trà nhuận trường, thông tiện:

    Hà thủ ô tươi 30g – 60g, nấu nước uống. Trị các chứng huyết hư, tân dịch khô nên đại tiện bí.

    Trà sinh địa thủ ô:

    Hà thủ ô chế 16g, thục địa 30g. Hà thủ ô chế, thục địa tẩm rượu, thái lát mỏng, cho nước sôi hãm uống thay trà. Dùng cho các trường hợp cơ thể suy nhược già yếu, râu tóc bạc sớm trước tuổi, bệnh mạch vành, mỡ huyết cao.

    Cháo kê hà thủ ô:

    Kê 50g, hà thủ ô chế 30g, trứng gà 2 quả. Kê nấu với hà thủ ô thành cháo, khi cháo được gắp bỏ các lát bã thuốc, đập trứng vào, thêm chút đường trắng khuấy đều, đun sôi lại. Cho ăn khi đói. Dùng cho các trường hợp thoát vị, sa tử cung, sa dạ dày trực tràng.

    Cháo gà hà thủ ô đỏ:

    Gà: ½ con, Hà thủ ô đỏ chế: 30g, Gạo: 70g. Cho gà và Hà thủ ô vào nồi áp suất nấu cho mềm, vớt bỏ bã Hà thủ ô, vớt gà để riêng. Cho gạo vào nồi nước hầm gà lúc nãy nấu đến khi gạo nở bung, bỏ gà đã nấu trở vào nồi, nêm muối vừa ăn. Ăn cháo khi còn nóng, chấm gà với muối tiêu chanh.

    Chè đậu đen hà thủ ô:

    Hà thủ ô chế 60g, đậu đen 100g. Cả hai thứ cùng nấu với lượng nước thích hợp đến khi đậu đen chín nhừ, vớt bỏ bã hà thủ ô, chia 2 – 3 lần ăn trong ngày. Có thể thêm chút đường hoặc muối. Dùng cho các trường hợp thiểu năng mạch vành, cơn đau thắt ngực, các trường hợp râu tóc bạc sớm, táo bón kinh diễn.

    Hà thủ ô hầm gà:

    Gà mái tơ 1 con, hà thủ ô chế 30g. Gà làm sạch bỏ ruột, hà thủ ô gói trong vải xô, đặt trong bụng gà, hầm cách thuỷ, lấy ra bỏ bã thuốc, thêm gia vị. Dùng cho các trường hợp râu tóc bạc sớm, đau đầu hoa mắt chóng mặt, mất ngủ, suy nhược cơ thể.

    Chữa đái rắt buốt, đái ra máu (Hải Thượng Lãn Ông):

    • Lá hà thủ ô đỏ tươi, giã vắt lấy nước, hoà với mật uống.
    • Lá hà thủ ô đỏ, lá huyết dụ, lượng bằng nhau. Sắc rồi hoà thêm mật ong uống.

    Hà thủ ô tán làm râu tóc trắng hoá đen, khoẻ gân xương, bền tinh khí, sống lâu:

    Hà thủ ô đỏ cạo vỏ, thái mỏng phơi khô, tán bột. Ngày uống 4g vào sáng sớm, chiêu thuốc bằng rượu.

     Viên bổ hà thủ ô (chữa sốt rét gầy yếu, ăn ngủ kém, đau xương, di tinh, bạch đới) trẻ em chậm đi, chậm mọc răng:

    Hà thủ ô đỏ 500g, sâm bố chính 300g, hạt sen 300g, cam thảo 100g, đại hồi 100g, quả thảo 100g. Ba vị hà thủ ô, sâm, hạt sen đồ chín. Cam thảo nướng vàng. Thảo quả bỏ vỏ, lấy nhân. Trộn chung, sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, luyện với mật ong làm viên bằng hạt đỗ đen. Trẻ em uống mỗi lần 6 – 15 viên (tuỳ tuổi), người lớn mỗi lần uống 20 viên.

    Cháo lươn, đậu đen và hà thủ ô giúp sáng mắt:

    Lươn 150g, hà thủ ô 10g, đậu đen 60g, táo đỏ 4 quả, gừng tươi 2 lát mỏng. Cách chế biến như sau: Lươn làm sạch, đậu đen ngâm mềm, cho vào nồi đất, thêm nước vừa đủ, hầm khoảng ba giờ cho nhừ. Nêm gia vị vừa ăn. Dùng trong bữa cơm. nếu dùng liên tục thì liệu trình từ 7-10 ngày. Nếu dùng kéo dài, thường xuyên thì dùng 3 lần/tuần. Những người bị bệnh gan mạn tính tăng huyết áp, bệnh đường tiêu hóa… không nên sử dụng.

    Chú ý : Người có huyết áp thấp và đường huyết thấp hạn chế dùng hà thủ ô đỏ.

     

    ]]>
    https://tracuuduoclieu.vn/ha-thu-o-do.html/feed 0
    Dâm dương hoắc https://tracuuduoclieu.vn/dam-duong-hoac.html https://tracuuduoclieu.vn/dam-duong-hoac.html#respond Thu, 22 Mar 2018 22:00:05 +0000 https://tracuuduoclieu.vn/dl/dam-duong-hoac/ Mô tả
    • Dâm dương hoắc: Tên Latin là Epimedium macranthum Morr. & Decne.
    • Tên tiếng Hoa: yin yang huo) là cây thân thảo, cao khoảng 0.5 – 0.8m có hoa, cuống dài.
    • Cây này có nhiều loài khác nhau như Dâm dương hoắc lá to, Dâm dương hoắc lá hình tim, Dâm dương hoắc tá mác, tất cả các loại trên đều được sử dụng trong y học cổ truyền với tác dụng bổ thận tráng dương dành cho nam giới.
    • Tương truyền rằng khi Dâm dương hoắc được người dân cho dê đực ăn, thì sau đó dê đực có khả năng giao phối với dê cái rất nhiều lần trong ngày, từ đó cây được đặt tên là Dâm dương hoắc.

    Phân bố

    Dâm dương hoắc phân bố chủ yếu ở miền rừng núi và có rất nhiều ở Trung Quốc, đây là cây thích hợp mọc ở vùng có khí hậu ôn đới. Ở Việt Nam, cây này xuất hiện tại các vùng núi cao vùng Tây Bắc, đặc biệt là ở Hòa Bình, Sapa.

    Tác dụng điều trị bệnh của cây dâm dương hoắc

    • Từ lâu y học cổ truyền Trung Quốc đã sử dụng Dâm dương hoắc để làm giảm căng thẳng và mệt mỏi cho cả nam và nữ. Dâm dương hoắc còn có tác dụng kích thích chuyện ấy của bạn.
    • Cây có vị cay ngọt, tính bình đi vào kinh can, thận. Có công dụng ôn thận tráng dương (làm ấm tạng thận và khỏe dương khí), cường cân tráng cốt (làm mạnh gân xương) và khứ phong trừ thấp.
    • Dâm dương có tác dụng tương tự như nội tiết tố sinh dục, làm tăng trọng lượng của thùy trước tuyến yên, tinh hoàn, buồng trứng và tử cung.
    • Kích thích quá trình bài tiết tinh dịch, nâng cao năng lực hoạt động của tinh hoàn, qua đó gián tiếp làm hưng phấn và tăng cường khả năng tình dục.
    • Trị suy nhược thần kinh
    • Trị viêm phế quản mãn tính ở trẻ em, hạ ho, trừ đờm
    • Tác dụng tốt với các đối tượng thiểu năng sinh dục (do bẩm sinh)
    • Hạ huyết áp và bảo hộ tế bào cơ tim
    • Tác dụng ức chế vi khuẩn lao

    Đối tượng sử dụng

    Dâm dương hoắc dùng tốt cho cả nam và nữ, đặc biệt là các trường hợp sau :

    • Người bị chứng liệt dương, di tinh, tinh lạnh
    • Người muộn con, hiếm muộn, vô sinh
    • Người già lưng đau gối mỏi, gân cốt co rút, bán thân bất toại, tay chân yếu lạnh, phong thấp, tiểu tiện bất cấm
    • Nam giới bị suy giảm chức năng sinh lý
    • Nữ giới bị khô âm đạo, lãnh cảm, giảm ham muốn về chuyện chăn gối
    • Người suy nhược thần kinh, mất ngủ
    • Người huyết áp cao

    Cách dùng dâm dương hoắc

    • Ở Việt Nam, cây dâm dương cũng đã được dân gian sử dụng từ lâu cho cả nam lẫn nữ từ lâu dưới hình thức ngâm rượu. Cánh mày râu thường uống rượu dâm dương hoắc với mong muốn cải thiện bản lĩnh đàn ông.
    • Để tăng tính hiệu quả và tùy theo bệnh, người ta thường ngâm dâm dương hoắc với một số vị thuốc như Tiên mao (hay Sâm cau ), ba kích, nấm ngọc cẩu, tử thạch anh, uy linh tiên, cao lương khương, sinh khương…
    • Dâm dương hoắc phối hợp với Sâm cau, ba kích và nấm ngọc cẩu sẽ giúp nâng cao khả năng bổ thận tráng dương, tăng cường năng lực tình dục, phòng chống liệt dương và di mộng tinh.
    • Phối hợp với tử thạch anh để làm ấm tử cung, phòng chống tích cực các chứng bệnh ở phụ nữ như thống kinh, bế kinh, băng huyết, rong kinh, khó thụ thai do thận dương hư suy.
    • Phối hợp với uy linh tiên để tăng cường khả năng khu phong trừ thấp, phòng chống hữu hiệu chứng khớp do hư lạnh…..

     

    ]]>
    https://tracuuduoclieu.vn/dam-duong-hoac.html/feed 0