Mô tả cây
- Cây nhỡ hóa gỗ ở gốc, cao 0,50-2m. Thân cành ba cạnh, có vài lông cứng trên các cạnh.
- Lá một lá chét, có hai mũi nhọn cong thành hình kim ở gốc của lá chét, lá chét hình ba cạnh, dài, cụt, hình tim ở gốc, lá kèm hình ba cạnh nhọn, dạng vẩy. Cụm hoa ở nách hay ở ngọn thành chùm làm thành một chùy ở ngọn. Hoa màu hồng, xếp 1-2 cái một. Đài nhẵn chia 4 thùy. Cánh cờ hình mắt chim, cánh bên hình trái xoan ngược, cánh thìa nhỏ hình mỏ cong. Nhị một bó, bầu có lông mềm, quả thẳng có lông màu tro mềm hơi cong ở các mép, chia 6-8 đốt.
- Mùa hoa: Tháng 6-9.
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang dại phổ biến trên các đồi cỏ và đồi sim mua khắp mọi nơi ở nước ta. Còn thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ. Người ta thu hái toàn cây vào mùa hạ và thu. Dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô mà dùng.
Thành phần hóa học
Trong cây có cumarin, hợp chất phenol axit hữu cơ và tanin (Quảng Châu thị dược phẩm kiểm nghiệm sở, Nông thôn trung thảo dược chế tế kỹ thuật, 1971, 250).
Công dụng và liều dùng
- Cây thuốc này hầu như chưa thấy ghi trong những tài liệu cổ mà chỉ thấy trong nhân dân người ta dùng cây này với tính chất một vị thuốc có vị đắng, tính hơi mát, tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, hóa đờm, tiêu tích, sát trùng.
- Trẻ con tiêu hóa kém, cam tích: Dùng riêng hay phối hợp với bạch mao căn, cam thảo, tất cả tán bột cho uống. Ngày dùng 10-20 g dưới dạng thuốc sắc.
- Chữa phế ung (ho có đờm xanh (mủ): Ngày dùng 10-15g dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với xạ can, qua lâu.
- Chữa viêm gan viêm thận, thủy thũng, viêm ruột, đi ỉa lỏng.