Nguồn gốc vị thuốc
- Da voi nói ở đây có thể là loài voi ở châu Á Elephas maximus L. hoặc loài voi châu Phi Elephas africanus capensis đều thuộc họ Voi Elephantidae.
- Cả hai con đều là những con vật to lớn, sống ở những vùng nhiệt đới chỉ khác nhau ở chỗ voi châu Á thì có tai nhỏ hơn, lưng cong vòng lên còn voi châu Phi có tai to phù lên hai bên bả vai, lưng cong võng xuống. Tại Việt Nam chỉ có loài voi ỏ châu Á, loài này còn gặp ở Ấn Độ, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia.
- Sau khi thịt voi, người ta lột da, cạo bỏ hết thịt và gân màng, cắt thành từng miếng vuông hoặc không thành hình nào phơi khô hay sấy khô là được. Da voi dày chừng 0,5-2cm, mặt ngoài màu tro đen, mấp mô không nhẵn, đôi khi có lông dìa màu tro đen, mặt trong tro trắng hay tro nâu. Chất cứng chắc, khi cắt vết cắt màu tro trắng hay vàng nâu, hơi trong, vị hơi tanh.
Thành phần hóa học
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu; chỉ mới biết có chất protit. Hoạt chất khác chưa rõ.
Công dụng và liều dùng
- Da voi chỉ thấy dùng trong đông y chủ yếu để chữa những bệnh mụn nhọt lở loét lâu ngày không liền miệng. Tính vị của da voi theo tài liệu cổ là vị ngọt, mặn tính âm (ôn), có tác dụng sinh cơ, liễm sang dùng chữa kim sang hạ cam.
- Dùng ngoài không kể liều lượng. Thường người ta ngâm nước 2-3 ngày cho mềm rồi thái mỏng 1-2mm mà dùng hoặc đốt ra than mà bôi lên mụn hoặc sao với hoạt thạch cho vàng giòn rồi tán bột rắc lên vết loét.
Chú thích:
- Ngoài da voi ra, người ta còn dùng ngà voi, tượng nha-(Dens Eìephatis). Vì ngà voi đắt và dùng vào nhiều việc khác cho nên thường người ta nhặt những vụn hay mạt cưa khi cưa hay dũa ngà voi làm thuốc. Tính chất của ngà voi theo tài liệu cổ là vị ngọt, tính hàn, không độc thường có tác dụng cầm máu, tiêu độc, sinh da non, làm thuốc sốt, chữa các chứng hồi hộp, lo sợ, sốt quá hóa cuồng, mụn nhọt lâu liền miệng. Dùng trong ngày uống 6-12g, dùng ngoài không có liều lượng.
- Trong trường hợp không có da voi, nhiều khi người ta dùng cả da của lợn rừng Susscrofa L. thuộc họ Suidae hoặc da của tê giác (xem vị này).