Mục lục

Hình ảnh cây Đậu chiều
- Còn gọi là đậu săng, đậu cọc rào, đậu chè, đậu sáng, sandekday (Campuchia)
- Tên khoa học Cajanus indicus Spreng
- Thuộc họ Đậu Fabaceae (Papilionaceae)
Mô tả cây
Cây nhỏ cao 1-3m. Cành có những đường nổi dọc, mặt trên xanh thẫm, mặt dưới rất nhạt.
Lá kép mọc so le, gồm 3 lá chét nguyên, hình mũi mác, dài 7-10cm, rộng 1.5-3.5cm, lá chét tận cùng lớn hơn, gốc thuôn hoặc tròn, đầu rất nhọn, hai mặt có lông mềm, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới trắng nhạt, gân nổi rõ, cuống chung dài 2.5cm, lá kèm nhỏ.
Hoa màu vàng hay điểm những đường dọc tía mọc thành chùm ở kẽ lá. Cụm hoa mọc thành từng chùm ở kẽ lá và đầu cành. Hoa có lông, có 4 răng đều, cánh hoa sớm rụng, cánh cờ rộng, nhị 2 bó, bầu có lông.
Quả dài đầu nhọn, hơi có lông, dài 4-7cm rộng 8-12mm, với 2-3 vết lõm chạy chéo trên quả. Hạt 3-5 màu trắng nhạt, điểm đen, nâu hay đỏ nhạt tuỳ theo loại.
Mùa hoa quả tháng 1-3
Phân bố, thu hái và chế biến
- Đậu chiều có nguồn gốc ở Ấn Độ, sau lan dần ra các nước vùng Đông Nam Á, châu Phi, châu Mỹ và một số vùng khác ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Tuy nhiên, nơi tập trung cao của loài này vẫn là vùng Ấn Độ và đông châu Phi.
- Ở Việt Nam, đậu chiều cũng được trồng ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh trung du, núi thấp và đồng bằng Bắc Bộ như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Bộ phận sử dụng
Người ta dùng hạt và rễ làm thuốc. Hạt thu ở quả chín, rễ đào quanh năm, đào về rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học
Hạt đậu chiều chứa nhiều protein trong đó có tyrosin, cystenin, lysin phenyl alanin, valin, isoleucin, leucin, threonin, histidin, methionin, tryprophan, alanin, cerin, glycin, prolin, acid aspartic, acid glutamic.
Công dụng và liều dùng
- Hạt đậu chiêu được dùng làm thực phẩm, một nguồn protit thực vật như nhiều loại đậu khác. Nhưng phải chú ý tránh dùng những loại hạt chứa nhiều axit xyanhydric.
- Ngoài công dụng thực phẩm, rễ đậu chiêu được dùng làm thuốc chữa sốt và giải độc, tiêu thũng hay đái đêm.
- Ở Ấn Độ, đậu chiều được dùng để bổ sung protein vào chế độ ăn uống có nhiều tinh bột. Ăn hạt sống với lượng nhiều có tác dụng làm ra mồ hôi. Vỏ quả đậu còn xanh dùng làm rau ăn.
- Còn người dân ở Rwanda (Trung Phi), dùng lá đậu chiều chữa viêm phổi, bệnh lậu.
- Ở Senepal, đậu chiều được dùng trị tiêu chảy và lỵ.
Bài thuốc có đậu chiều
1.Chữa cảm sốt, mụn nhọt, trẻ em lên sởi, ho
Rễ đậu chiều 15g sắc uống hoặc phối hợp với sài đất, kim ngân hoa, mỗi vị 10g, cùng sắc và uống.
2. Chữa đái tháo đường
Ăn hạt đậu chiều, rau khoai lang đỏ. Đồng thời dùng quả chuối hột xanh 30g, sắc uống hàng ngày.
Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam