Mục lục
Mô tả cây
- Cây nhỏ hay cây nhỡ, cao 1,5 – 5m.
- Cành mọc hơi tỏa ra, mập, nhẵn, có nhiều vết sẹo do lá rụng để lại, bấm ra có nhiều nhựa mủ.
- Lá mọc so le, hình trứng rộng, gốc hình tim, đầu hơi nhọn, có cạnh hoặc chia 3–5 thùy; dài 10–13 cm, rộng 8–11 cm, hai mặt nhẵn, gân chính 5–7, tỏa ra hình chân vịt; cuống lá dài 7–12 cm, phình lên ở gốc.
- Cụm hoa mọc ở đầu cành thành xim phân đôi, dài khoảng 8 cm, nhẵn hoặc hơi có lông mịn màu trắng; hoa đực có đài 5 phiến rời không bằng nhau, tràng có 5 cánh có lông ở mặt trong, nhị 10, 5 cái rời và 5 cái dính nhau ở phần giữa chỉ nhị; hoa cái có đài và tràng giống nhau, nhị lép 5 hoặc không có, bầu hình trứng, thắt lại ở đầu.
- Quả nang, hình trứng, dài và rộng 2–2,5 cm; hạt 3, gần hình cầu.
- Mùa hoa quả: tháng 5–8.
Phân bố và sinh thái
Chi Jatropha L. chỉ có ít loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Mỹ và châu Á. Ở Việt Nam có 5 loài trong đó dầu mè là cây trồng, nguồn gốc từ châu Mỹ. Cây cũng được trồng phổ biến ở một số nước vùng Đông Nam Á và Ấn Độ.
Dầu mè là cây ưa sáng, chịu hạn tốt, thường được trồng dây làm bờ rào. Ra hoa quả nhiều: tái sinh từ gốc bị chặt và cành khoẻ, nên thường được trồng bằng cách cắm cành.
Bộ phận dùng
Lá, rễ, nhựa và dầu béo ép từ hạt.
Thành phần hoá học
Nhựa mủ của cây dầu mè có curceain (enzym thuỷ phân protein với trọng lượng phân tử 22.000), 2 peptid mạch vòng là curcacyclin A và curcacyclin B.
Thân, cành, lá chứa triacontanol, 7-ceto-β-sitosterol.
Vỏ thân chứa tanin 37% (tính theo trọng lượng khô), sáp, đường khử, saponin, ít tinh dầu.
Lá tươi có vitexin, isovitexin.
Hạt chứa 18,2% protein, 38,0% dầu béo, 17,08% carbohydrat, tinh bột, acid hữu cơ, hai chất độc là curcin (albumin) và một chất nhựa. Dầu béo chứa acid myristic, acid palmitic, acid stearic, acid arachidic, acid oleic 37–63%, acid linoleic 19–40%. Chất độc trong dầu béo là diterpen 12-desoxy-16-hydroxyphorbol.
Tác dụng dược lý
Dầu hạt cây dầu mè có tác dụng tẩy, nhưng thường gây kích ứng mạnh đường dạ dày – ruột hoặc ngộ độc. Toàn bộ hạt có tác dụng tẩy và điều giun sán. Vì có độc tính cao nên không dùng hạt và dầu của cây cho những chỉ định này.
Chất độc của dầu là những ester của chất diterpen 12-desoxy-16-hydroxyphorbol. Những chất này được đánh giá về tác dụng kích ứng trên chuột nhắt trắng, về tác dụng đồng gây ung thư trong thí nghiệm làm tăng sự biến đổi của tế bào lympho người gây bởi virus Epstein–Barr và thí nghiệm gây khối u da sau sự kích thích với 7,12-dimethylbenzo(a)anthracen. Tác dụng độc của hạt dầu mè ở động vật và người không chỉ do dầu hạt và những phorbol ester của hạt, mà một phần còn do nhóm albumin protein có khi gọi là “curcin”. Những protein tinh chế từ phần đoạn này được chứng minh có tác dụng ức chế in vitro sự tổng hợp protein ở các tế bào nuôi và gây ức chế ung thư hồng cầu người.
Nghiên cứu kiểm tra giả thuyết là hoạt tính thuỷ phân protein có thể chịu trách nhiệm về một số tác dụng điều trị (như lành vết thương, cầm máu), của nhựa mủ dầu mè đã dẫn đến phân lập được protease curcain. Đã chứng minh tác dụng điều trị vết thương của curcain trong một thuốc bôi điều trị hút nước (0,5–1%) tốt hơn so với nitrofurazon. Chất curcacyclin A có tác dụng ức chế sự tăng sinh mức độ vừa phụ thuộc vào liều của tế bào T của người. Không thấy có tác dụng độc hại tế bào. Lá dầu mè có tác dụng mạnh trên tim mạch. Thí nghiệm trên chuột lang cho thấy lá có tác dụng làm giảm lực co cơ tim, giảm nhịp tim và phong bế đáp ứng đối với kích thích bởi isoprenalin trên tâm nhĩ, có phản giống với tác dụng của một thuốc chống loạn nhịp phong bế beta. Cao methanol từ lá có tác dụng chống co thắt gây bởi kali clorid và acetylcholin.
Không thấy có tác dụng gây đột biến của 5 diterpen phân lập từ rễ cây dầu mè trong thí nghiệm Ames dùng cả hai chủng thử TA98 và TA100, cùng với hoặc không có phân đoạn S-9 từ gan chuột cống trắng được cho biphenyl polyclo-hóa. Những thành phần không phân cực của lá dầu mè có hoạt tính in vivo và in vitro chống bệnh bạch cầu lympho. Nhựa mủ cây dầu mè có hoạt tính kháng khuẩn đối với tụ cầu khuẩn vàng. Cao nước và cao cồn từ thân và rễ có tác dụng ức chế các vi khuẩn Staphylococcus aureus, Streptococcus pyogenes, Strep. viridans. Cao cồn ức chế Staph. aureus mạnh hơn cao nước.
Tính vị, công năng
Lá có vị đắng và se, tính mát, có độc; có tác dụng làm tan máu ứ, tiêu sưng, cầm máu, chống ngứa. Lá dầu mè giã nát đắp lên bụng để gây tẩy cho trẻ em, có khi còn được dùng ngoài chữa thấp khớp. Rễ dùng ngoài chữa tê liệt, bại liệt.
Dầu hạt gây nôn và tẩy mạnh, giải độc, sát trùng. Nhựa mủ có tác dụng bôi lên vết thương hay vết loét. Cây có độc đối với cá.
Công dụng
Hạt dầu mè có tác dụng tẩy mạnh nhưng vì có độc tính cao nên không dùng.
Dùng nhựa mủ bôi lên vết thương hay vết loét, khi khô sẽ thành một màng che như kiểu màng colodion. Lá dầu mè giã nát đắp lên bụng để gây tẩy cho trẻ em, có khi còn được dùng ngoài chữa thấp khớp. Rễ dùng ngoài chữa tê liệt, bại liệt.
Ở một số nước châu Á, nhựa mủ cây dầu mè được dùng ngoài để trị vết thương, cầm máu, bỏng, bệnh da như eczema và bệnh nấm da, vết loét, vết đứt, vết trầy da và ghẻ. Khi khô, nhựa làm thành một màng kín hơi. Lá dầu mè dùng ngoài chữa eczema, ngứa, tê, kỳ sinh trùng ghẻ, và là chất gây sung huyết da trị thấp khớp. Cành tươi dầu mè dùng để đánh răng, làm mạnh lợi, chữa lợi chảy máu hoặc có mủ. Dầu mè cũng là thuốc độc đối với cá. Hạt dầu mè giã nát hòa với dầu cua làm bả chuột. Dầu mè được dùng trị lở loét cho gia súc. Dùng lá xông khói trị rệp. Dịch ép lá bôi ngoài chữa trị. Dầu hạt trị bệnh da, thấp khớp, đau dây thần kinh hông, liệt. Lá dầu mè nghiền nát đắp trị sưng vú và làm lon sữa. Vỏ cây giã nát đắp trị bong gân, sai khớp.
Ở một số nước châu Phi và Nam Mỹ, nhựa mủ cây dầu mè được dùng ngoài chữa vết thương, đau tai và để gây sung huyết da. Lá giã nát đắp trị thấp khớp và làm thuốc xua ruồi khỏi mắt ngựa. Ở Camơrun, dầu hạt được dùng làm chất phụ thêm vào hạt Strophanthus để làm thuốc độc tẩm mũi tên, làm mồi câu cá và bẫy gà rừng.
Đơn thuốc:
- Loét mạn tính: Dùng dầu hạt lẫn với vaselin làm pomat bôi.
- Mẩn ngứa, eczema: Dùng lá Dầu mè tươi, giã nát và rịt.
Ghi chú: Hạt rất độc, dễ gây ngộ độc nguy hiểm; khi dùng phải thận trọng.
Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam