Mục lục
Mô tả con giun đất
- Thân hình trụ, tròn và dài khoảng 10 – 30 cm, đường kính 5 – 10 mm, có khoang cơ và nhiều vòng đốt rất sít nhau.
- Da trơn bóng có 4 đôi lông cứng giúp giun di chuyển.
- Phần đầu to hơn phần đuôi. Toàn thân màu nâu vàng hay nâu đỏ, đôi khi đen, sẫm hơn ở phía lưng.
- Những loài giun đất có đường kính thân dưới 5 mm và trên 10 mm, không được dùng làm thuốc.
Giun đất thuộc nhiều chi. Tại châu Âu chi chủ yếu là Lumbricus thuộc họ Đới dẫn Lumbricidae: Tại châu Á và châu Úc chỉ chủ yếu thuộc họ Cự dẫn Megascolecidae.
Những chi giun thường gặp ở nước ta mới được xác định tới chi Pheretima, giun khoang là Pheretima aspergillum.
Tại Trung Quốc, người ta thường dùng 2 loài chủ yếu là: Pheretima asiatica Michaelsen và Allolobophora caliginosa trapeloides đều thuộc họ Cự dẫn Megascolecidae. Con giun Pheretima asiatica là một loài giun to, dài chừng 11-38cm, to chừng 5-12mm. Thân có nhiều đốt, ở mặt bụng và ở hai bên thân có 4 đôi lông ngắn rất cứng giúp nó di chuyển, vòng đai chiếm 8 đốt thứ 14, 15 và 16, có 1 lỗ sinh thực cái chiếm giữa đốt thứ 14, lỗ sinh thực gồm 2 lỗ ở 2 bên đốt 18, lỗ nang thụ tinh gồm 3 đôi ở giữa các đốt 6-7, 7-8 và 8-9.
Loại này gặp nhiều ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến (Trung Quốc). Có thể có ở các tỉnh biên giới nước ta. Loài Allolobophora caliginosa trapezoides cũng là loài giun to, gồm 4 đôi lông cứng, vòng sinh thực chiếm giữa các đốt 26-34, hình yên ngựa, một đôi lỗ sinh thực đực ở đốt thứ 15, một đôi lỗ sinh thực cái ở đốt thứ 14, hai đôi nang thụ tinh ở giữa các đốt thứ 14, hai đôi nang thụ tinh ở giữa các đốt 9-10 và 10-11.
Phân bố, thu hoạch và chế biến
Giun đất ưa sống ở những nơi đất ẩm và lắm mùn ở khắp nơi trong nước ta. Ban ngày thì ở trong tổ, tối đến khi sương xuống làm ướt mặt đất thì bò ra ngoài, khi trời mưa cũng thường gặp giun trong vườn hay sân. Thức ăn của giun là những chất mùn hữu cơ thối rữa lẫn trong đất. Nó ăn đất, lọc lấy chất mùn rồi thải bã và đất ra ngoài.
Muốn bắt giun, người ta đổ nước bồ kết hay nước rau nghể, nước chè vào những nơi có nhiều giun, tức thì giun bò ra. Cho nó vào tro rơm và dội nước ấm cho sạch chất nhầy nhớt. Sau đó dùng đinh đóng đuôi nó vào miếng gỗ, lấy dao sắc rạch từ đầu đến cuối, dùng nước ấm rửa sạch đất cát trong bụng, rồi phơi hay sấy khô. Có nơi người ta chỉ bắt giun, dùng tro và nước nóng rửa cho sạch nhớt ở ngoài rồi phơi hay sấy khô chứ không mổ bụng rửa sạch đất như nói ở trên.
Bộ phận dùng
Toàn thân con giun đất, được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, với tên thuốc là địa long, thổ long hay khâu dẫn. Phân giun cũng được sử dụng.
Cách chế biến giun đất:
Bắt giun cho vào tro bếp, dùng rơm xát nhẹ hoặc rửa bằng nước bỏ kết hay nước phèn chua cho sạch lớp nhớt bên ngoài (như làm lươn). Sau đó, cắt bỏ đầu, tuốt cho ra hết đất cát trong bụng, rồi lộn lớp da phía trong của giun ra ngoài bằng một que nhỏ. Dùng nước ấm rửa nhiều lần cho sạch, lần cuối rửa bằng nước nóng có pha ít muối, rồi đem phơi khô hoặc sấy khô. Có nơi, người ta không rửa nước mà rửa toàn bằng rượu (cách làm thứ nhất). Hoặc sau khi xát hết nhớt, cắt bỏ đầu và đuôi, luồn một dao nhỏ hoặc que nữa vào rạch bụng, banh ra, rửa sạch đất cát, tẩm rượu cho giun săn lại, rồi sấy khô (cách làm thứ hai).
Dược liệu địa long, theo cách làm thứ nhất, có hình trụ tròn, cong queo, đường kính khoảng 0,2 – 0,5 cm, mặt ngoài nhăn nheo, màu nâu xám nhạt, có đốt vòng, dính dài bằng cơ thể nhỏ. Hoặc theo cách làm thứ hai, có hình bán dài và mỏng, mặt ngoài màu nâu bóng, mặt trong màu xỉn, mép uốn lượn, hơi cuộn lại, chất nhẹ, hơi dai. Loại màu nâu, thịt dày là tốt.
Khi dùng, thái nhỏ, tẩm rượu gừng, sao qua, tán thành bột mịn.
Thành phần hóa học
Từ năm 1911, nhà khoa học Nhật Bản Bát Mộc đã nghiên cứu giun đất và lấy ra được một chất đặt tên là lumbritin với công thức thô xác định là C259H528O125N47SP3(CdCl3)193H20. Năm 1914, Thái Hiệp nghiên cứu giun đất lấy ra được một chất độc gọi là terastro- lumbrolysin. Năm 1915, Điền Trung Bạn Kết và Ngạch Điền Tấn lại chiết được một chất gọi là lumbrifebrin có lẽ là dẫn xuất của tyrosin.
Năm 1921-1922, hai tác giả Nhật Bản khác Thôn Sơn Nghĩa Ôn và Thanh Sơn Tân Thứ Lang lại báo cáo đã chiết từ giun đất được các chất béo, axit, cholesterin, cholin, những chất do thủy phân các axit amin và axit nucleic như adenin và guanin.
Năm 1937, Triệu Thừa Cố, Chu Hoằng Bích và Trương Xương Thiện, từ loài giun đất Pheretima asiatica lấy được một chất có tinh thể hình lăng trụ, có chứa nitơ, độ chảy trên 320oC, có phản ứng trung tính đối với giấy quỳ, cho với axit clohyđric muối clohyđrat có tinh thể. Năm 1938 các tác giả trên lại chứng minh rằng chất có tinh thể chiết được năm trước là chất hypoxantin, chất này cho với clorua vàng 2 loại muối vàng là C5H4N4O.AuC13 và C5H4N4O.HCl.AuCl32H20.
Tác dụng dược lý
Tác dụng dược lý của giun đất đã được nghiên cứu và thấy những kết quả tóm tắt sau đây:
Tác dụng giảm sốt.
Trong những sách cổ đều nhận rằng giun đất có tác dụng chữa sốt nặng (đại nhiệt). Từ năm 1914 đã có một tác giả người Nhật (Câu Khẩn) chứng minh rằng trong giun đất có chất trị sốt. Năm sau (1915) hai tác giả Nhật Bản khác (Điền Trung và Ngạch Điền) đã thí nghiệm trên súc vật và chứng minh rằng chất chữa sốt trong giun đất là lumbrilebrin. Hai tác giả Nhật Bản khác nữa (Thôn Sơn Và Thanh Sơn) lại dùng chất tan trong rượu của giun đất để thí nghiệm tác dụng giảm sốt, thì thấy chất tan trong rượu có tác dụng giảm sốt.
Tác dụng giãn khí quản.
Năm 1937 Triệu Thừa Cố, Chu Hoằng Bích và Trường Xương Thiệu đã dùng phổi chuột bạch và thỏ để thí nghiệm đã chứng minh giun đất có tác dụng làm giãn ống phổi (chi khí quản); để nhìn tác dụng giãn ống phối rõ rệt hơn, trước khi thí nghiệm tiêm vào phổi súc vật chất histamin hay pilocacpin.
Tác dụng chống histamin.
Triệu Thừa Cố và đồng sự đã từng dùng thành phần có nitơ trong giun đất tiêm vào tĩnh mạch những con vật còn sống để xem tác dụng kháng histamin của giun đất thì thấy rằng chất lấy từ giun đất có khả năng bảo vệ không chết 50% số con vật được tiêm liều độc chết của histamin.
Tác dụng hạ huyết áp và ức chế sự co bóp của ruột non.
Triệu Thừa Cố và đồng sự đã từng dùng chất có nitơ trong giun đất để thí nghiệm tác dụng hạ huyết áp và ức chế tính co bóp của ruột non và so sánh với chất adenozin thì thấy tác dụng tương tự mặc dầu tính chất hóa học không giống nhau.
Tác dụng phá huyết.
Theo báo cáo của nhà nghiên cứu Nhật Bản Bát Bộc (1911) thì chất lumbritin có tác dụng phá huyết.
Tính vị công năng
Giun đất có vị mặn, tính hàn. Quy vào 4 kinh: vị, can, tỳ, thận, có công năng thanh nhiệt hạ sốt, trấn kinh, thông kinh, hoạt lạc, bình suyễn, hạ huyết áp, lợi niệu, tiêu phù…
Công dụng và liều dùng
Giun đất chuyên trị sốt rét, sốt cao phát cuồng, co giật, hen suyễn, cao huyết áp, chân tay tê bại. Liều dùng hàng ngày là 6 – 12g sắc với 200ml nước còn 50ml uống trong ngày hoặc 2 – 4g dưới dạng thuốc bột.
Ngày trước, những người đi làm ăn, buôn bán xa hoặc đi rừng săn lâm, tìm vàng (thường là thời gian đầu từ 5 tháng đến 1 năm) vẫn mang theo mình một lọ thuốc bột giun đất (địa long tán) để phòng thân, chữa sốt rét, ngã nước, soi lạm chướng khí, vàng da, sốt phát ban… Những bộ nhân xưa khi lao động khổ sai, đã mách bảo nhau đào giun, phơi sạch, nướng ăn làm thuốc bổ sức khoẻ chữa phù thũng, bể bãi chân tay, nhức mỏi, rụng tóc, lở loét. Lương y Nguyễn An Định đã dùng giun đất phối hợp với dầu dền, dâu xanh và rau ngót trong bài thuốc “Thần dược cứu mệnh” chữa khỏi bệnh nhân da liệt nửa người. Năm 1959, nhiều gia đình nấu cháo giun cho trẻ em ăn da dày lửa được sức khỏi tật liệt trẻ em, tránh được biến chứng.
Dạng ngoài, giun đất đôi tán tính, tán thô, trộn với mỡ lợn, bôi chữa lở vành tai. Hoặc bột giun đất, trộn với lòng trắng trứng gà, đánh cho nhuyễn, phết vào chỗ đau chiết sưng đau ở trẻ em (Nam dược thần hiệu).
Ngoài ra, phân giun hoà với nước uống cũng có tác dụng chữa sốt nóng phát cuồng; giã nhỏ trộn với mỡ lợn, bôi lên chỗ lở loét ở trẻ em.
Theo tài liệu nước ngoài, các chuyên gia của Viện Chế biến nông sản ở Xaratóp (Nga) đã phát hiện ra giun đất có chứa các chất có khả năng thải trừ chất độc xâm nhập viêm dịch vào cơ thể con người. Các sản phẩm bào chế từ giun được chế biến từ giun đất khô đã có mặt trong các quầy bán hàng ở nước Nga.
Bài thuốc có giun đất
A. Dùng ở Việt Nam
1. Chữa sốt rét
Giun đất 12g, vỏ thân hoặc rễ cây xoăn rừng 12g, hậu phác nam 12g, gừng 8g, trần bì 8g, dây thần thông 8g. Tất cả phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với hồ làm thành viên, uống hết trong một ngày.
Giun đất (10 con) cho vào quả bưởi (đã nao bỏ hết nước) đốt cháy thành than, tán bột, rót trộn với hồ làm viên bằng hạt ngô, ngày uống 10 viên.
Giun đất (80g, đã chế biến), quả na dếc (40g, tẩm rượu sao vàng), phèn phi (20g). Tán thành bột mịn, luyện với nước rồi làm viên bằng hạt đỗ xanh. Người lớn, ngày uống hai lần, mỗi lần 10 viên. Uống 4–5 ngày.
2. Chữa sốt cao, co giật:
Giun đất (30g), quả trám trắng (100g). Cả hai thứ phơi khô, tán nhỏ, rây thật mịn, trộn đều với hồ hoặc mật làm thành viên chừng 5g. Mỗi ngày uống 6 viên chia làm hai lần trước bữa ăn.
Hoặc giun đất (2 con), chuối tiêu hoặc chuối hột (1 cây nhỏ): Bổ đôi cây chuối theo chiều dọc, đặt giun đất vào giữa thân, buộc lại, đem đốt cho chín, rồi vắt lấy nước uống. (Lương y Võ Văn Lượng – Tiền Giang).
3. Chữa cảm khâu:
Giun đất, lòng nhím và quả hồ kết (lượng bằng nhau) phơi khô, đốt thành than, tán bột. Mỗi lần uống 4–8g với nước ấm. Ngày hai lần.
Hoặc giun đất với lá chè tươi và lá chanh, sắc uống.
4. Chữa sởi phát ban, sởi xuất huyết:
Giun đất (5–6 con), cỏ nhọ nồi (10g), bạc hà (8g), trắc bá (8g), lá dâu (8g), kinh giới (8g), củ sả (5g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày (Kinh nghiệm của tỉnh An Giang).
B. Dùng ở Trung Quốc
1. Chữa khò khè, thở khò khè:
Giun đất khô (20g), bách bộ (15g), cốt toái bổ (15g), thiên môn (15g), lá dâu (15g). Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml uống làm 2 lần trong ngày.
2. Chữa trúng phong:
Giun đất (15g), họ cáp (10g), xích thược (20g), ngưu tất (20g), hoa hồng (15g). Sắc đặc uống.
3. Chữa viêm ruột thể cấp:
Giun dãi (7 con), móc nhi trắng (100g). Sắc uống làm 3 lần trong ngày.
4. Chữa cao huyết áp (dạng món ăn – vị thuốc):
Giun dãi (15g), cà ngựa (10g), thịt gà (50g), cần tây (50g), đinh hương (10g), hành, gừng, muối (mỗi thứ 5g). Tất cả đầu với 100ml nước cho thật nhừ. Ăn cả cái lẫn nước làm một lần trong ngày.
5. Chữa di chứng sau tai biến mạch máu não:
Giun đất (30g) tán bột. Hoa đào, xích thược (mỗi thứ 20g), đương quy (50g), hoàng kỳ (100g), xuyên khung (10g), sắc lấy nước. Hạt ngô trắng (400g), hạt tiểu mạch (100g), tán bột. Trộn các bột với nước sắc dược liệu và đường làm thành 20 cái bánh. Lấy nhân hạnh đào, tán nhỏ, rắc đều lên bánh. Hấp chín. Ngày ăn hai lần, mỗi lần 1–2 bánh (bài thuốc đã có hơn 100 năm kinh nghiệm gia truyền).
Hoặc giun đất (3–5 con) thái nhỏ, trộn với trứng gà, xào chín, ăn cách ngày.
Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam