Mục lục
Mô tả cây
- Gừng là một loại thảo nhỏ, sống lâu năm, cao 0,6-1m. thân rễ nạc, mọc bò ngang, phân nhánh l
- Lá mọc so le không cuống, có bẹ, hình mác dài 15-20cm, rộng chừng 2cm, mặt bong nhẵn, gân giữa hơi trắng nhạt, vò có mùi thơm.
- Trục hoa xuất phát từ gốc, dài tới 20cm, rộng 2-3cm, lá bắc hình trứng, dài 2,5cm, mép lưng màu vàng, đài hoa dài chừng 1cm, có 3 răng ngắn, 3 cành hoa dài chừng 2cm, màu vàng xanh, mép cánh hoa màu tím, nhị cũng tím. Loài gừng trồng ít ra hoa
- Toàn cây, nhất là thân rễ có mùi thơm, vị cay nóng
- Mùa hoa quả: Tháng 5-8.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước hoặc xuất khẩu.
- Muốn có gừng tươi (sinh khương) thường đào củ vào hạ và thu. Cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch là được. muốn giữ gừng tươi lâu phải đặt vào chậu phủ kín đất lên. Khi dùng đào củ lên rửa sạch. Mùa đông đào lấy những thân rễ già, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch, phơi khô sẽ được can khương.
- Ngoài 2 loại gừng trên dùng trong đông y, trên thị trường quốc tế người ta còn tiêu thụ 2 loại gừng gọi là gừng xám và gừng trắng. gừng xám là loại củ còn để nguyên vỏ hay cạo vỏ ở những chỗ phẳng, rồi phơi khô. Gừng trắng là loại gừng đã được cạo lớp vỏ ngoài có chứa nhiều nhựa dầu (oleoresine), rồi mới phơi khô. Thường người ta còn ngâm gừng già trong nước một ngày, rồi mới lấy ra cạo vỏ. có khi ngừơi ta còn làm trắng bằng canxi hypoclorit, hay ngâm nước vôi hoặc xông hơi diêm sinh (SO2).
Thành phần hoá học
- Trong gừng có từ 2-3% tinh dầu. ngoài ra còn có chất nhựa dầu (5%), chất béo (3,7%), tinh bột và các chất cay như zingeron, zingerola và shogaola
- Tinh dầu gừng có tỷ trọng 0,878 tả tuyền, năng suất quay cực -250 ở -50C, độ sôi 1553000. Trong tinh dầu có α camphen, β phelandren, một cacbua: zingiberen C15H24, một rượu sesquitecpen, một ít xitrala bocneola và geraniola
- Nhựa gồm một nhựa trung tính, hai nhựa axit
- Zingerola là một chất lỏng sánh, màu vàng không mùi, vị rất cay, độ sôi ở 18mm thuỷ ngân là 235-2400C. Bản thân chất này không đơn thuần, khi cùng đun sôi với Ba (OH)2 sẽ bị phân giải cho những chất andehyt bay hơi, những chất cay có tinh thể gọi là zingeron C11H14O3 và một chất ở thể dầu gọi là shogaola
- Shogaola có độ sôi 201-203oC
- Zingeron có tinh thể, độ sôi 40-41oC, vị rất cay
- Căn cứ vào sự hiểu biết hiện nay về cấu tạo hoá học những chất có cấu tạo trên đây trong đó n lớn hơn 1 thì đều có vị cay như các chất trong gừng
- Do những công thức trên chúng ta hiểu được tại sao khi ngâm gừng lâu với một dung dịch 5/KOH thì sẽ mất hết tính chất cay
Tác dụng dược lý
Trên thực nghiệm, gừng có tác dụng gây giãn mạch và tăng tỷ lệ protein toàn phần và gamma globulin trên động vật thí nghiệm, đồng thời có khả năng ức chế hoạt tính histamine và acctylcholin thế hiện sự giảm mức độ co thắt cơ trơn ruột cô lập.
Gừng có tác dụng làm giảm cơn dị ứng của chuột lang đã được gây mẫn cảm bằng cách tiêm kháng nguyên gây phản ứng phản vệ.
Cineol trong gừng có tác dụng kích thích khi sử dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn.
Nói chung, gừng có tác dụng dược lý như sau:
- Ức chế thần kinh trung ương, làm giảm vận động tự nhiên và tăng thời gian gây ngủ của thuốc ngủ barbitiric. Cao chiết gừng khô, gingerol và shogaol đều ức chế sự vận động tự nhiên của chuột nhắt.
- Hạ nhiệt: shogaol và gingerol làm giảm sốt trên chuột đã được gây sốt bằng tiêm men bia.
- Giảm đau và giảm ho.
- Chống co thắt: shogaol và gingerol có tác dụng này.
Bộ phận sử dụng
- Thân rễ, thu hái vào mùa đông, dùng tươi là sinh khương, phơi hoặc sấy khô là can khương. Còn dùng tiêu khương (gừng khô thái lát dày, sao sém vàng, đang nóng vảy vào ít nước, đậy kín. Để nguội); bào khương (gừng khô đã bào chế); thân khương (gừng khô thái lát dày, sao cháy đen)
- Có thể cất tinh dầu từ gừng với hiệu suất 1-2,7% hoặc điều chế nhựa dầu gừng từ bột gừng khô với các dung môi hữu cơ, hiệu suất 4,2-6,5%.
Công dụng và liều dùng
- Theo tài liệu cổ sinh khương vị cay tính hơi ôn, vào ba kinh phế, tỳ và vị. có tác dụng phát biểu tán hàn, ôn trung, làm hết nôn, tiêu đờm, hành thuỷ giải độc. dùng chữa ngoại cảm,biểu chứng bụng trường đầy, nôn mửa, giải độc bán hạ, nam tinh, cua cá, đờm ẩm sinh ho. Can khương vị cay, tính ôn, bào khương (can khương bào chế rồi) vị cay đắng tính đại nhiệt vào sáu kinh tâm, phế, tỳ, vị thận và đại tràng. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch dùng chữa thổ tả, bụng đau, chân tay lạnh, mạch nhỏ, hàn ẩm xuyễn ho phong hàn thấp tỳ.
- Trong nhân dân, gừng là một vị thuốc giúp sự tiêu hoá, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa đi tả, cảm mạo, phong hàn, làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng. gừng tươi (sinh khương) dùng với liều 3-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc pha hoặc rượu gừng tươi (mỗi ngày 2-5ml). gừng khô (can khương) dùng khi bị lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa. liều dùng cũng như gừng tươi.
- Ngoài công dụng làm thuốc, gừng còn tiêu thụ mạnh trên thị trường trong nước và thế giới vì là một thực phẩm, nguyên liệu chế rượu bia (Anh và Mỹ lại thích loại bia này), mứt gừng.
Bài thuốc có gừng:
1. Chữa nhức đầu, lạnh bụng, nôn oẹ, có đờm:
Can khương 10g, trích cam thảo 4g, nước 300ml sắc còn 100ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Thấy đỡ thì uống bớt đi.
2. Đi tả ra nước:
- Gừng sấy khô tán nhỏ, dùng nước cơm chiêu với thuốc, mỗi lần uống 2-4g.
- Gừng nướng, bóc vỏ, thái lát nhai với búp ổi hay búp chè
3. Đi lỵ ra máu:
Can khương thiêu tồn tính ngày uống nhiều lần, mỗi lần 2-4g, chiêu bằng nước cơm hay cháo.
4. Cảm cúm, nhức đầu, ho, thân thể đau mỏi:
Gừng sống giã nhỏ. Bọc vào mớ tóc rối, tẩm rượu xào nóng đánh khắp người và xát vào chỗ đau mỏi.
5. Chữa nôn mửa:
Gừng sống nhấm từng ít một cho đến khi hết nôn.
6. Chữa ho lâu ngày và ợ:
Gừng tươi giã lấy nước ( 1 thìa) trộn với mật ong ( 1 thìa). Đun nóng, uống dần ít một.
7. Chữa sổ mũi:
Nước gừng, bột bạch chỉ trộn lẫn bôi vào huyệt thái dương
8. Chữa cảm mạo phong hàn:
Tía tô 10g, kinh giới 10g, bạc hà 10g, bạch chỉ 6g, địa liền 6g, vỏ quýt 6g, gừng tươi 3 lát. Sắc uống ngày 1 thang trong 3 ngày.
Lưu ý:
Trong đông y người ta cho rằng những người trong ngoài đến nhiệt, vì nhiệt mà đau bụng vì nhiệt mà thổ huyết thì không dùng được.