Mô tả cây
- Đây là một loại dây mọc leo, sống dai, khác gốc, thân mọc cuốn, có lông cứng. Lá mọc đối, có cuống, gốc hình tim, có 3-5 thùy chân vịt, mép có răng cưa.
- Hoa màu lục nhạt. Hoa đực tập hợp thành chùy thưa, mọc ở kẽ lá, hoa cái họp thành nón, nhiều nón họp thành chùm ở đầu cành. Mỗi nón hình trứng gồm rất nhiều lá bắc dạng lá, màu vàng nhạt và mỏng khi chín, cái nọ phủ lên cái kia. Ở nách mỗi nón có hai hoa cái, sau khi thụ phấn sẽ cho một quả bế nhỏ.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Mọc hoang dại và được trồng ở các nước ôn đới, ẩm thấp châu Âu và châu Mỹ (Pháp, Séc, Đức …) để lấy hoa cái chế bia. Khi trồng thường người ta loại bỏ những gốc cây đực để tránh thụ phấn với những hoa cái tạo những quả bế làm giảm mùi thơm của hoa.
- Ở nước ta, mấy năm gần đây mới nhập nội loại cây này về trồng thí nghiệm ở Mộc Châu, Hà Giang, Bắc Ninh và Đà Lạt để lấy hoa cái chế rượu bia. Vào mùa hoa (tháng 6-7) người ta thu hái những nón hoa cái chín, sấy khô ở nhiệt độ dưới 60°. Càng để lâu mùi thơm càng tăng. Ngoài hoa cái, người ta còn dùng lông tiết phủ trên lá bắc (chiếm 10 đến 12% trọng lượng cụm hoa cái) với tên lupulin. Muốn chế lupulin, người ta đập hoa cái, lông tiết sẽ rụng ra dưới dạng bột màu nâu đỏ nhạt, rất dễ vón vào nhau, không bị nước làm ướt. Mùi rất hăng. Vị đắng. Khi soi kính hiển vi, ta sẽ thấy những lông có kích thước 150- 250µ, chân ngắn gồm nhiều tế bào, với phần trên xếp thành hình cốc gồm một dãy tế bào tiết có lớp cutin bị nhựa dầu tiết ra làm dãn ra.
Thành phần hóa học
- Những nón hoa cái chứa khoảng 10% nước, 8% chất vô cơ,, các chất lipit, sáp, một ít tanin, sắc tố ilavon, chất xanthohumola (là một chalcon), các glucozit của quexetola và kaempferola. Các amin (trimetylamin) và cholin cũng đã được phát hiện .
- Người ta cho rằng hoạt chất của nón hoa cái hublông là nhựa dầu (oleoresin) gồm: 0,50% tinh dầu với thành phần gồm các cacbua tecpenic: myxen, humulen, canaben và một este valeri- anic của bocneola.
- 10 đến 15% chất nhựa (resine) chứa những hợp chất đắng xeton vói những gốc OH phenola (làm cho trước đây người ta tưởng lầm là axit): lupulon, (axit (3-lupulinic) kèm theo những chất gần giống với những chuỗi đính khác nhau, rất dễ đồng phân hóa trong quá trình bảo quản. Những năm gần đây người ta đã phát hiện thấy các hợp chất trixeton có vòng năm cạnh: humulinon và hulupon.
Công dụng và liều dùng
- Về mặt y dược hoa hublông được dùng từ lâu đời làm thuốc giúp sự tiêu hóa, thuốc bổ đắng (dưới dạng thuốc hãm 10%). Người ta cho rằng hoa hublông có tác dụng gây động dục (oestrogène). Chất lupulin (lông tiết) được dùng làm thuốc giảm đau, thuốc dịu dục (bột dùng với liều 0,20g đến 1g, cao dùng với liều 0,10g đến 0,50g). Với liều cao có thể gây nhức đầu và buồn nôn.
- Năm 1952, Erdman đã chứng minh tác dụng chống khuẩn của humulon lupulom và nhất là dẫn xuất hydrogen hóa của lupulon đối với các vi trùng Gram dương và vi trùng lao.
- Trong công nghiệp bia: Công dụng lớn nhất của hoa hublông là trong công nghiệp chế bia: Trước khi cho lên men nước sắc mầm lúa mạch người ta thêm hoa hublông vào.
- Người ta cho rằng hoa hublông làm cho bia có mùi thơm, vị đắng và giúp bảo quản bia lâu hỏng.
Chú thích:
Nếu cây hoa hublông là một cây mới di thực thì ở trong nước ta vốn có mọc hoang dại một cây thuộc cùng chi tên là cây sàn sạt hay leo dây tên khoa học là Humulus japonicus Sieb. et Zucc, (Ầntìdesma scandens Lour.) thuộc cùng họ Gai mèo (Cannahìnaceae). Đây là một loại dây leo thân có rãnh dọc, lá mọc đối, lá phía trên so le, phiến xẻ 5 thùy hình chân vịt, rộng 8cm, rất nhiều lông, mép có răng cưa. Hoa khác gốc, hoa đực mọc ở kẽ lá, thành chùy hình tháp, hoa cái thành hình xim co gần hình cầu. Hoa không cuống, mọc ở nách một lá bắc đính với một lá bắc con giống như một đài. Hoa đực có 5 lá đài có lông rải rác ở phần lưng. Nhị 5, chỉ nhị rất ngắn, bao phấn rời hình 4 cạnh. Hoa cái trần quả bế, màu vàng nhạt. Hoa nở vào tháng 7-8. Cây mọc hoang dại ở khắp nơi. Trâu bò rất thích ăn. Hoa cái không thấy có lông tiết cho nên không thấy thơm và không dùng chế bia được. Lá sàn sạt có 0,05% luteolin-7D-glucozit C21H20O11.l/2 H20; 0,015% cosmosiin C21H20O10; 0,005% vitexin O21H20O10. (Dược học tạp chí-Nhật, 1962, 82, 1331), ngoài ra còn ít tinh dầu, tanin. Hạt chứa 27,9% chất béo (Trung dược chí, 1961, 719, 1647). Nhân dân dùng lá khô sắc uống chữa lỵ, sốt, khát nước. Có thể dùng lá tươi. Ngày dùng 10-16 lá khô.