Mô tả cây
- Cây bụi, cao 2 – 4m, gỗ thân và rễ có màu vàng. Thân hình trụ, mọc thẳng, cành non có 4 cạnh, màu lục nhạt. Lá mọc đối hình bầu dục thuôn hoặc hình mác, dài 12- 18cm, rộng 6 – 10cm, gốc thuôn, đầu nhọn, hai mặt lúc non gần như nhẵn, khi già mặt dưới có ít lông ngắn mềm, gần giữa nổi rõ, cuống lá dài 2 – 3cm, lá kèm gần hình tim nguyên hoặc chia thùy.
- Cụm hoa mọc ở đầu cành hay kẽ lá thành đầu có cuống dài 2 – 2,5cm, hoa nhỏ, màu trắng sít nhau, ở gốc mỗi hóa có 1 – 2 hàng phiến bao hình dùi; đài lúc đầu rời nhau sau hàn liền; tràng có 4 – 5 cánh hợp thành ống dài 2,5 – 3cm; nhị 4 – 5 đính ở khoảng 2/5 phần trên của ống tràng, chỉ nhị ngắn; bầu 4 ô. Quả nạc gồm nhiều quả mọng nhỏ.
- Mùa hoa: tháng 4 – 6, mùa quả tháng 7 – 12.
Phân bố
Cây mọc hoang rải rác ở ven rừng thứ sinh hoặc ở trên nương rẫy cũ với độ cao dưới 800m. Thường gặp ở Sơn La, Lào Cai, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế.
Bộ phận dùng
Bộ phận dùng là phần trên mặt đất.
Thành phần hóa học
Lá, thân và rễ cây nhó đông đều có các nhóm chất gồm anthranoid, coumarin, acid hữu cơ, carotenoid, phytosterol và đường khử tự do. Hàm lượng các chất này ở lá và rễ nhiều hơn so với ở thân.
Tác dụng dược lý
TS Phạm Minh Hưng (2005) đã nghiên cứu một số tác dụng dược lý của cây nhó đông cho các kết quả:
- Trên chuột nhắt trắng: cao nước rễ cây nhó đông liều 150g/kg/ngày (tương đương 500 lần liều thường dùng trên người) không gây chết chuột thực nghiệm, cho thấy rễ cây nhó đông gần như không độc và có phạm vi điều trị rất rộng.
- Trên chuột nhắt trắng: cao nước rễ cây nhó đông và cao methanol rễ cây nhó đông có tác dụng bảo vệ gan chuột bị nhiễm độc do dùng CCl4: Ức chế lần lượt 21,79 và 22,43% sự tăng hàm lượng ALT huyết thanh do CCl4 so với lô chứng bệnh lý (P < 0,001), cao methanol rễ cây nhó đông có tác dụng chống oxy hóa tốt: hoạt tính chống oxy hóa của nó là 25,9%, đồng thời làm tăng 18,8% hàm lượng GSH so với lô chứng bệnh lý.
- Trên chuột cống trắng: cao nước rễ cây nhó đông liều 10g dược liệu khô/kg có tác dụng bảo vệ gan chuột bị nhiễm độc do dùng CCl4: là giảm lần lượt 26,4% và 44,7% hàm lượng AST, ALT huyết thanh bị tăng so với lô chứng bệnh lý (P < 0,001), bình thường hóa chỉ số De ritis (Chỉ số De Ritis = AST/ALT, hồi phục hóa sinh chức năng gan bằng việc ức chế sự giảm sinh tổng hợp protein và cholesterol do CCl4, cải thiện và hồi phục các tổn thương tế bào gan qua quan sát các hình ảnh đại thể và vi thể).
- Trên chuột cống trắng: cao methanol rễ nhó đông liều 1g/kg có tác dụng chống viêm mạn tính.
Nguyễn Xuân Khu (2011) cũng tiến hành nghiên cứu tác dụng bảo vệ tế bào gan của cao lỏng nhó đông trên mô hình gây độc bằng CCl4 trên chuột nhắt trắng. Ngoài tác dụng gây hoại tử tế bào gan, trong quá trình chuyển hóa, CCl4 được chuyển thành CCl4. Chất này hoạt động như một gốc tự do, oxy hóa màng tế bào và phá hủy màng tế bào nói chung, trong đó có tế bào gan. Kết quả cho thấy:
- Cao nhó đông có tác dụng bảo vệ tế bào gan, làm giảm hoạt độ ALT và AST huyết tương, làm giảm MDA tạo ra ở gan, làm tăng GSH trong gan, và giảm tổn thương gan trên mô hình chuột nhắt trắng gây độc bằng CCl4.
- Mức độ tăng hoạt độ AST, ALT ở lô chuột uống CCl4 và cao nhó đông (tăng 147,80% và 134,97% so với chứng sinh học) ít hơn so với lô chuột uống CCl4 và NaCl 9%o (tăng 181,48% và 155,54%), p<0,05.
- Mức độ tăng nồng độ MDA trong gan ở lô chuột uống CCl4 và cao nhó đông (tăng 105,54% so với chứng sinh học) ít hơn so với lô chuột uống CCl4 và NaCl 9%o (tăng 111,89% so với chứng sinh học) (p<0,05).
- Mức độ giảm nồng độ GSH trong gan chuột nhóm được uống cao nhó đông (còn 45,23% so với chứng sinh học) ít hơn so với nhóm không được điều trị (còn 56,34% so với chứng sinh học), (p<0,05).
Công dụng
Nhó đông có vị đắng, màu vàng, tính bình, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, kiện tỳ, hoạt huyết, tiêu viêm, tán ứ, chữa viêm gan, vàng da, xơ gan, được dùng dưới các dạng thuốc sau:
- Nước sắc: dược liệu nhó đông 20 – 30g, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.
- Cao mềm: lấy 1kg rễ nhó đông, thái mỏng đổ nước xâm xấp, nấu kiệt làm 2 lần. Lần thứ nhất nấu trong 6 – 8 giờ, rút nước. Lần thứ hai trong 3 – 4 giờ. Trộn hai nước lại cô nhỏ lửa thành cao mềm. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 – 4g.
Ngoài ra, còn dùng dạng cốm được bào chế từ cao nhó đông trộn với đường.
Thuốc giúp người bệnh ăn ngủ tốt, hết vàng da, vàng mắt, đầy bụng.
Đồng bào ở xã Chiềng An, thị xã Sơn La còn dùng rễ hoặc thân già (phần sát gốc rễ của cây nhó đông phối hợp với rễ cây hé mọ (Psychotria) để chữa viêm đại tràng cho kết quả tốt.