Hình ảnh ô dược
Mô tả cây
- Cây nhỏ, cao 1-1,4m, phân cành nhiều. Cành mảnh, màu đen nhạt.
- Lá mọc so le, hình bầu dục, phiến khá dày, dài 6cm, rộng 2cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mép nguyên, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới màu xám nhạt, có lông trắng. 3 gân nổi rõ xuất phát từ gốc kéo dài đến đầu lá; cuống lá dài 0,7-1cm, lúc đầu có lông, sau nhẵn.
- Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành xim tán nhỏ, gồm nhiều hoa nhỏ hồng nhạt; lá bắc 4, 2 lá phía ngoài rất ngắn; bao hoa 6 phiến gần bằng nhau, thuôn, có lông ở sống giữa.
- Quả mọng, hình trứng, khi chín đỏ, chứa 1 hạt.
- Toàn cây có tinh dầu thơm.
- Mùa hoa quả: tháng 4-6.
Phân bố, sinh thái
Chi Lindera Thunb. ở Việt Nam có khoảng 20 loài. Loài ô dược nam nằm trong nhóm cây gỗ nhỏ, phân bố rải rác các tỉnh thuộc vùng núi thấp hoặc trung du như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Trên thế giới loài này còn có ở Trung Quốc, Ấn Độ.
Ô dược ưa sáng, có thể chịu được hạn: thường mọc ở rừng thứ sinh và các đồi cây bụi. Ở Việt Nam, cây thuốc này bị khai thác nhiều hàng năm, nên đã được đưa vào Sách đỏ (1996) để bảo vệ.
Bộ phận dùng:
- Rễ và quả ô dược
- Rễ thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu đông hay đầu xuân, đào về cắt bỏ rễ con, rửa sạch phơi khô.
Có thể chế biến rễ như sau:
- Ô dược phiến: Rễ rửa sạch, ngâm nước, ủ mềm, thái phiến dài 3 – 5 cm, phơi khô.
- Ô dược sao vàng: Đem ô dược phiến sao cho đến khi có màu vàng.
- Ô dược sao cám: Lấy chảo đun nóng, cho cám vào rang đều khi có mùi thơm, đổ ô dược phiến vào sao cho phiến có màu vàng nhạt. Có thể tẩm mật ong vào ô dược phiến rồi đem sao với cám đến khi có màu vàng và mùi thơm
- Ô dược chích rượu (ô dược 10 kg, rượu 2 kg): Trộn rượu vào ô được, để yên 30 phút cho hút hết rượu, rồi sao với cám đến khi bề mặt phiến có màu vàng, rây bỏ cám.
Thành phần hóa học
Ô dược chứa các alcaloid.
Trong ô dược bắc, người ta phân biệt hai loại:
1. Thiên thai ô dược là rễ cây Lindera strychnifolia Will, (hay Benzoin strychnifolium Kuntze) cùng họ.
2. Vệ châu ô dược là rễ cây Cocculus iaurifoiius DC. thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
- Trong thiên thai ô dược, người ta đã xác định được các chất ancaloit như: linderan C8H10O2, linderen C8H14O2, rượu linderola C11H22O và axit lindcric và este của rượu linderola.Ngoài ra, người ta còn xác định được một ceton với công thức C15H18O2 và một chất linderazulen với công thức C14H16
- Trong vệ châu ô dược người ta xác định được một ancaloit gọi là coclorin C17H19O8N.
Tác dụng dược lý
- Thí nghiệm trên chuột cống trắng, dùng chế độ ăn có ô dược, nuôi chuột dài ngày thấy chuột tăng cân nhanh so với lô đối chứng.
- Trong thân rễ ô dược, có một thành phần có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn.
Tính vị, công năng
Ô dược có vị cay, tính ôn, vào các kinh tỳ, phế, thận, bàng quang, có tác dụng thuần khí, chỉ thống, ôn thận, tán hàn.
Công dụng
Theo kinh nghiệm nhân dân, ô dược được dùng làm thuốc chữa đau bụng, ăn không tiêu, nôn mửa, trẻ em đau bụng giun, dãi dám, nhức dầu chóng mặt, đái vặt. Liều dùng: 2 – 6 g, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
Đơn thuốc có ô dược
- Ô hương lán: Ô dược-hương phụ, hai vị bằng nhau, tán nhỏ. Mỗi lần dùng 6-8g bột này, Có thể sắc uống. Tùy theo các bệnh mà thay đổi thêm các vị khác sau đây: Ví dụ: Ăn không ngon, sắc nước gừng mà chiêu thuốc (4g gừng), nếu có giun, chạy bằng hạt cau (hạt cau 4g sắc với 50ml nước dùng chiêu thuốc).
- Viên ô dược: Ô dược tán nhỏ, thêm nước hồ làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10-20 viên chữa lỵ, sốt, đi ỉa.
Chú thích:
Theo các tài liệu cũ, trong nước ta có vệ châu ô dược Cocculus laurifoiius DC. thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Đây là một cây dây leo, gầy nhẵn, màu xanh lục nhạt. Lá có cuống ngắn gần giống như lá quế. Phiến phía cuống nhọn, dai, nhẫn dài 9cm, rộng 3-5cm, có 3 gân, nổi rõ ô cả hai mật. Quả hình thấu kính, đường kính 5mm. Hạt cũng gần giống như quả, hình thấu kính, nhưng ờ hai mặt có đìa nổi lên trông giống móng ngựa. Theo tài liệu, cây này mọc ở khắp Việt Nam. Theo sự nghiên cứu của Nhật Bản, thì trong vỏ và lá có ancaloit gọi là cocculin có tác dụng giống như chất curarơ.