Mô tả
- Cây thảo nhỏ mọng nước, sống hằng năm, cao 20 – 40 cm, bén rễ ở những mấu. Thân giòn dễ gãy, mọc đứng sau mọc bò, nhẵn, phân nhánh nhiều.
- Lá mọc so le, hình tim, phiến dạng màng, dài 1,5 – 2 cm, rộng 1 – 1,2 cm, gốc hình tim, đầu nhọn, mặt trên bóng láng, gân lá 5; cuống lá dài khoảng 1,5 cm.
- Cụm hoa mọc đối diện với lá thành bông mảnh dài 5 – 8 cm; lá bắc có phiến tròn và cuống rất ngắn; hoa lưỡng tính, bao hoa gần hình tròn, nhị 2 có chỉ nhị rất ngắn, bao phấn tròn, bầu có vòi nhụy mọc chính giữa đỉnh, hơi có lông.
- Quả mọng hình cầu, đường kính 0,5 – 1 mm có nhiều đường gờ nhỏ chạy dọc, đầu có mũi nhọn rất ngắn, khi chín màu nâu đen, chứa một hạt.
- Toàn cây có tinh dầu, mùi thơm nhẹ.
Phân bố, sinh thái
Chi Peperomia Ruiz et Rav, ở Việt Nam đã biết có 6 loài. Loài rau càng cua phân bố tự nhiên gần như khắp các tỉnh miền núi, đôi khi gặp ở vùng trung du và cả đồng bằng (hiếm). Cây còn được trồng lấy rau ăn hoặc trồng làm cảnh trên các hòn non bộ. Trên thế giới, rau càng cua cũng bố rải rác ở nhiều nước thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á.
Cây đặc biệt ưa ẩm và ưa bóng, thường mọc thành đám nhỏ ở các hốc mùn đá, thậm chí ở các kẽ đá hoặc trên bề mặt đá chỗ có rêu bám. Cây cũng mọc trên đất ở bờ khe suối.
Bộ phận dùng:
Toàn cây.
Thành phần hoá học
Rau càng cua chứa các chất apigenin (5, 7, 4 – trihydroxyflavon), acacetin (5, 7 – dihydroxy – 4′ – methoxyflavon), isovitexin (5, 7, 4 – trihydroxy- 8 – C. glucosid), pellucidatin – 8 – neohesperidosid, [5 – hydroxy – 3, 6, 7, 4 – tetramethoxyflavon – 8 – O -glucosyl (1 – 2) rhamnosid], (CA 121, 1994: 78279f), (CA 121, 1994: 276688s).
Tác dụng dược lý
Tác dụng trên các vi sinh vật:
Cao chiết bằng ethylacetat của toàn cây rau càng cua bỏ rễ có tác dụng kháng khuẩn khá mạnh trên Bacillus subtilis, Pseudomonas aeruginosae và Staphylococcus aureus. Mức độ tác dụng mạnh hơn penicillin [De Padua et al., 1999, vol.1: 380].
Tác dụng chống viêm:
Cao nước toàn cây rau càng cua có tác dụng chống viêm có ý nghĩa, nhưng chỉ loại thu hái vào mùa đông và mùa xuân mới có tác dụng (Arrigoni et al., 2002). Cao chiết nước của phần trên mặt đất cây rau càng cua đã được thử tác dụng chống viêm trên mô hình gây phù bằng caragenin và bằng acid arachidonic ở chuột cống trắng. Kết quả cho thấy, cao với liều cho uống 200 và 400 mg/kg có tác dụng chống viêm tốt (Arrigoni – Blank et al., 2004).
Tác dụng giảm đau:
Cao chiết bằng methanol của phần trên mặt đất cây rau càng cua với liều từ 70 – 210 mg/kg có tác dụng giảm đau do acid acetic ở chuột nhắt trắng (Aziba et al., 2001). Cao chiết nước phần trên mặt đất của cây rau càng cua đã được nghiên cứu tác dụng giảm đau trên mô hình gây đau quặn bụng bằng acid acetic và thử nghiệm tấm nóng trên chuột nhắt trắng. Kết quả cho thấy, trên mô hình dùng acid acetic, cao có tác dụng mạnh nhất ở liều 400 mg/kg, trong khi dùng mô hình tấm nóng, liều tốt nhất là 100 mg/kg (Arrigoni – Blank et al., 2004).
Tác dụng trên tế bào ung thư:
Đã nghiên cứu tác dụng của một số chất chiết từ toàn cây rau càng cua trên ba dòng tế bào ung thư của người là HL – 60 (bệnh đa bạch cầu tiền tuỷ bào cấp), MCF – 7 (dòng tế bào ung thư vú) và Hela (dòng tế bào ung thư cổ tử cung). Kết quả cho thấy chất secolignan – 1 có tác dụng ức chế sự phát triển của cả 3 dòng tế bào ung thư với IC50 từ 1,4 đến 9,1 micromol, chất peperomin E có IC50 từ 1,8 đến 11,1 micromol, chất secolignan – 2 có tác dụng ức chế yếu trên dòng tế bào HL – 60 với IC 50 là 10,8 micromol (Xu S. et al., 2006).
Tính vị, công năng
Cây rau càng cua vị ngọt, chua, hơi chát, tính mát, có công năng thanh nhiệt giải độc, tán ứ chị thống.
Công dụng
Nhân dân thường lấy lá rau càng cua rửa sạch, giã nát, đắp lên trán và thái dương để chữa sốt rét, đau đầu, sốt cao. Để chữa đau bụng, toàn cây bỏ rễ, lấy một năm (50g) rửa sạch, giã nát vắt lấy nước uống. Nhân dân dùng toàn cây bò re, rửa sạch làm rau ăn sống hoặc nấu canh ăn để giải nhiệt.
- Ở Philippin, toàn cây giã nát làm thành miếng đắp, hơ nóng, đắp lên chữa áp xe và nhọt chưa vỡ mủ, nước sắc hoặc hãm, uống chống gút, đau thấp khớp, bệnh thận.
- Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng giã đắp trị đòn ngã, bỏng lửa, bỏng nước, ung sang thũng độc.
- Ở Malaysia, toàn cây sắc uống chữa thấp khớp, mệt mỏi.
- Ở Trung Nam Phi, rau càng cua được dùng như ở Philippin, ngoài ra còn sắc uống để kích thích tiêu hoá, ăn ngon.