Mục lục
Mô tả cây
Cây cỏ nhỏ, mọc bò thân và cành mọc toả tròn gần sát mặt đất, màu đỏ tím, đôi khi mọc cao tới 10-30cm. Lá nhỏ, mọc so le, có bẹ chìa. Phiến lá dài 1,5-2cm, rộng 0,4cm. Hoa nhỏ, màu hồng tím, mọc tụ từ 1-5, thường 3-4 hoa ở kẽ lá. Qủa ở cạnh, chứa một hạt đầu đen. Mùa hoa từ tháng 5-6, kéo dài suốt mùa hè.
Phân bố, thu hái và chế biến
Theo A.Petelot (1954) cây không thấy mọc ở Việt Nam mà chỉ thấy bán cây khô tại các hiệu thuốc đông y và nhập từ Trung Quốc. nhưng thực tế phát hiện đã thấy mọc ở các tỉnh phía Việt Nam như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang và ngay cả Hà Nội, tại những nơi ẩm như ruộng bỏ hoang, long suối cạn, có người trồng một ít quanh nhà dùng làm thuốc. Trồng bằng hạt, cây con. Thường người ta thu hái toàn cây (cả rễ) vào mùa xuân và hạ. Dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Thành phần hoá học
- Trong rau đắng có 0,35% chất tannin, ngoài ra có vitamin C (tới 900mg% đối với cây khô kiệt), carotin (tới 39%), flavonozit avicularin C20H18O11, khi thuỷ phân avicularin sẽ cho quexetin và l.arabinoza
- Có tác giả cho rằng ít ancaloit, nhưng có tác giả cho rằng không có. Trong vỏ có anthraglucozit
- Ngoài ra còn đường, tinh dầu, nhựa, sáp. Độ tro 2,44%
Tác dụng dược lý
The A.D.Turova và một số tác giả Liên Xô cũ nghiên cứu tác dụng dược lý của rau đắng mọc ở miền nam Liên Xô cũ phát hiện thấy tác dụng hạ huyết áp, tăng cường sự hô hấp. Dịch chiết nước của rau đắng gây co bóp tử cung cô lập hay không cô lập củ súc vật cái, làm tăng thời gian đông máu, tăng lượng nước tiểu . Cũng ở Liên Xô cũ từ rau đắng người ta chế biến thành dạng thuốc mang tên avicularen (hỗn hợp đồng đều của dịch chiết rau đắng bằng cồn 700 và bã của cây sau khi đã chiết). Avicularen làm tăng thời gian đông máu của thỏ, nhưng không ảnh huởng tới độ nhớt máu thỏ. Cho avicularen vào tá tràng thỏ cái không gây mê thì biên độ và tần số sự co bóp tử cung tăng lên Avicularen không độc.
Tại Liên Xô cũ avicularen được dùng cho phụ nữ sau sinh, kết quả tốt đạt tới 60%
Công dụng và liều dùng
- Trong tài liệu cổ: Rau đắng (biển súc) có vị đắng, tính bình, không độc. Vào hai kinh vị và bàng quang. Có tác dụng lợi tiểu, thông lâm, sát trùng, dùng trong những trường hợp thấp nhiệt, lâm bệnh, vưu trùng, ác thương
- Trong nhân dân rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa đái buốt, sỏi thận. Ngoài ra còn được dùng làm thuốc giải độc, chữa rắn cắn, mụn nhọt, vàng da.
- Ngày dùng 6-12g (khô) dưới dạng thuốc sắc. Có thể dùng tươi sao khô rồi sắc uống. Dùng ngoài giã nát đắp không kể liều lượng.
Đơn thuốc có rau đắng
- Độc vị rau đắng: Ngày uống 12g rau đắng phơi hay sấy khô dưới dạng thuốc sắc. Chữa tiểu tiện khó khăn, đái buốt, đái ra sỏi sạn
- Đơn thuốc gồm nhi u vị: Rau đắng khô 12g, hoạt thạch 10g, nước ba bát, sắc còn một. Chia 3 lần uống trong ngày. Chữa viêm bàng quang, viêm đường tiểu tiện, đái buốt.