Chế biến thiên trúc hoàng
- Bốn mùa đều có thể có thiên trúc hoàng, nhưng thường hay có vào thu đông, vì nước trong các đốt tre, nứa dần dần ngưng đọng lại mà có. Thường khi đốt nương làm rẫy, người ta thu thập thiên trúc hoàng ở nhưng đốt cây nứa bị đốt cháy. Lấy ra phơi khô là được.
- Nhưng nếu đốt quá nóng, màu sắc chuyển màu xanh xám hay đen xám là kém, nếu lẫn đất cát phẩm chất còn kém hơn. Những cục trắng được coi là loại tốt. Kích thước thiên trúc hoàng to nhỏ không nhất định: to có thể đạt tới 1-1,5cm, nhỏ chỉ đo đuợc 1-2mm. Chất nhẹ, dễ vỡ vụn, nếm thì thấy dính vào lưỡi, không có mùi vị gì đặc biệt.
Phân bố
Tại những vùng rừng núi ở nuớc ta đều có. Việt Nam là một trong các nước có thiên trúc hoàng bán sang Trung Quốc. Ngoài ra, theo Dược tài học, Trung Quốc còn mua của Ấn Độ, Inđônêxia.
Thành phần hoá học
Thành phần của thiên trúc hoàng chủ yếu gồm có kali hydroxyl (1,1%), silic (90,5%), Al2O3 (0,9%), Fe2O3 (0,9%). Ngoài ra còn có ít canxi cacbonat.
Tác dụng dược lý
Chưa thấy tài liêu nghiên cứu.
Công dụng và liều dùng
- Thiên trúc hoàng là một vị thuốc dùng trong nhân dân, chủ yếu để chữa trẻ con bị kinh giật (an thần, định kinh giản) dùng cho người lớn chữa các trường hợp sốt mê man, bị cảm, không nói được. Ngoài ra còn có tác dụng chữa ho, trừ đờm. Liều dùng hàng ngày: 3-9g dưới dạng thuốc sắc. Nếu dùng dưới dạng bột chỉ cần 1-3g.
- Theo tài liệu cổ, thiên trúc hoàng vị ngọt, tính hàn, vào tâm kinh. Có tác dụng thanh nhiệt trừ đờm, định tâm, an thần, đuổi phong nhiệt. Dùng chữa người lớn trúng phong cấm khẩu, bệnh nhiệt hôn mê, trẻ con bị kinh giật. Không thực nhiệt không dùng được.
Đơn thuốc có thiên trúc hoàng
Chữa các bệnh về não, lên kinh, (đơn thuốc của Diệp Quyết Tuyển): Thiên trúc hoàng 2g, ngưu hoàng 1g, chu sa 0,30g. Tất cả tán nhỏ. Trộn đều. Ngày uống 3g. Chia làm 3 lần mỗi lần uống 1g. Trẻ con dùng nửa liều hay ít hơn, tuỳ theo tuổi.