Mục lục
Mô tả cây
Cây tử uyển là một loài thực vật thân thảo sống lâu năm, có các đặc điểm hình thái dễ nhận biết như sau:
Thân cây:
Cây mọc thẳng đứng, cao khoảng 40-100cm, thân có rãnh dọc và được bao phủ bởi lớp lông mềm hoặc lông thô ráp. Phần trên của thân đôi khi hơi cong, có các nhánh mọc xiên lên hoặc tỏa ra hai bên.
Lá cây:
- Lá gốc: Ở gốc cây, các lá sẽ rụng khi cây bắt đầu ra hoa.
- Lá giữa thân: Có hình bầu dục thuôn dài hoặc mũi mác dài, dài từ 5-15cm, rộng 1-5cm, phần gốc lá hẹp dần thành cuống lá có cánh rộng, đầu lá nhọn, mép lá có từ 3-7 răng cưa nông hoặc sâu.
- Lá ở ngọn: Nhỏ hơn các lá bên dưới, có răng cưa nông hoặc nguyên (mép lá nhẵn).
Tất cả các lá đều có kết cấu giấy, mặt trên có lông ráp ngắn, mặt dưới có màu nhạt hơn, phủ lông mềm, đôi khi có các điểm tuyến nhỏ. Lá có 3 gân chính nổi rõ từ gốc, mỗi bên có 3-4 gân phụ, mạng gân dễ thấy.
Hoa:
- Hoa tử uyển mọc thành cụm đầu, mỗi hoa có đường kính 1,5-2cm, sắp xếp thành chùm tán hoặc chùm hình nón.
- Lá bắc bao quanh hoa xếp thành 3 lớp giống như ngói lợp, phần dưới cứng như da, phần trên màu xanh hoặc tím nâu, có lông ngắn ở mép.
- Hoa lưỡi nhỏ dài khoảng 11mm, rộng 2mm, có màu tím, hồng nhạt hoặc trắng.
- Hoa ống màu vàng, dài khoảng 4,5-5,5mm.
Quả:
Là dạng quả bế (quả khô không tự mở), có hình trứng ngược thuôn dài, màu xám nâu, dài 2-2,5mm, có cạnh gờ và lông ngắn thô ráp.
Mùa hoa, quả: Tháng 7 – tháng 12.
Lịch sử thực vật học
Lịch sử thực vật học của cây tử uyển cho thấy có sự tranh luận và điều chỉnh trong quá trình phân loại học giữa các loài có hình thái tương đồng. Cụ thể:
Sự nhầm lẫn với loài tương cận:
Cây tử uyển (Aster trinervius D. Don) có hình thái rất giống với tam mạch tử uyển (Aster trinervius) và tam cơ mạch tử uyển (Aster trinervius subsp. trinervius).
Điểm khác biệt chính giữa cây tử uyển và tam cơ mạch tử uyển là hệ gân lá: Cây tử uyển có ba gân chính tách từ gốc lá (gân ly tâm), phần gốc lá thon dần, và các gân bên tỏa ra từ phần thon này.
Quan điểm của các nhà thực vật học:
Năm 1964, nhà thực vật học Grierson đã phát hiện tại vùng phía nam dãy Himalaya (Assam, Ấn Độ) tồn tại các dạng trung gian giữa cây tử uyển và tam cơ mạch tử uyển.
Ông đề xuất hợp nhất cây tử uyển vào tam cơ mạch tử uyển và xem nó là một phân loài (subspecies).
Giữ nguyên danh pháp độc lập:
Tuy nhiên, do cây tử uyển đã được sử dụng phổ biến từ lâu ở khu vực Đông Á và có nhiều biến thể hình thái, các nhà thực vật học quyết định giữ nguyên danh pháp độc lập cho loài này để tránh gây nhầm lẫn trong quá trình nghiên cứu và ứng dụng.
Như vậy, cây tử uyển từng có giai đoạn bị xem là một phân loài của tam cơ mạch tử uyển, nhưng sau đó đã được tách ra thành một loài độc lập do sự phổ biến và tính đa dạng của chúng ở các khu vực khác nhau.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Chỉ mới thấy mọc ở miền Bắc Việt Nam: Cao Bằng, Lạng Sơn, ít thấy ở miền Trung.
- Nhưng chưa hoặc ít được khai thác. Có mọc ở Lào.
- Phần nhiều vị tử uyển của ta vẫn phải nhập. Ta nên chú ý phát hiện lại để khai thác.
- Có mọc ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Triều Tiên.
- Nếu là tử uyển trồng thì vào mùa thu năm thứ nhất hay mùa xuân năm thứ hai, đào lấy rễ, cần chú ý kẻo đứt rễ con. Muốn vậy khi đào phải tưới nước, sau khi đào rửa sạch đất cát, tết những rễ nhỏ thành từng búi như búi tóc phơi hay sấy khô là được.
Điều kiện sinh trưởng
Độ cao sinh trưởng:
Cây tử uyển có thể sinh trưởng ở nhiều mức độ cao khác nhau, từ 100m đến 3.350m so với mực nước biển.
Môi trường sống ưa thích:
- Rừng thưa và bìa rừng: Những khu vực có ánh sáng khuếch tán.
- Đất hoang và bãi trống: Các vùng đất chưa được canh tác hoặc bỏ hoang.
- Bụi rậm và khe núi ẩm: Những nơi có độ ẩm cao và ít ánh sáng trực tiếp.
Điều kiện đất đai:
Cây phát triển tốt nhất trên đất màu mỡ, tơi xốp, có khả năng thoát nước tốt.
Phương pháp sinh sản
Cây tử uyển có hai phương pháp sinh sản chính là gieo hạt và tách gốc.
Với phương pháp gieo hạt, thời điểm thích hợp nhất là vào đầu tháng 3. Do hạt giống nhỏ, nên cần trộn với cát mịn trước khi gieo để phân bố đều. Đất gieo phải được làm phẳng và tưới nước đủ ẩm, sau đó phủ rơm hoặc cỏ khô để giữ độ ẩm. Sau khoảng 8 ngày, hạt sẽ nảy mầm. Khi cây con mọc lên, cần làm cỏ, tỉa bớt cây con và bón phân hữu cơ loãng. Giữ khoảng cách 4cm giữa các cây, tương đương khoảng 600 cây/m². Khi cây đạt chiều cao 6-8cm, có thể nhổ cây con và chuyển sang trồng cố định.
Phương pháp tách gốc có thể thực hiện vào mùa xuân (tháng 4-5) hoặc mùa thu (tháng 8-9). Để thực hiện, cần đào cả gốc cây lên, cắt bỏ rễ già và phần thân yếu, sau đó trồng lại trên luống với khoảng cách 12cm × 12cm, mỗi hố trồng 1-2 cây con. Sau khi trồng xong, phải tưới nước đầy đủ để cây nhanh bén rễ. Cách làm vào mùa thu cũng tương tự, nhưng khi trồng cần giữ lại 10-15cm thân cây phía trên để cây phát triển tốt hơn.
Thành phần hoá học
Trong tử uyển Aster tataricus, người ta đã chiết suất ra được chất astersaponin C23H44O10. Khi thuỷ phân sẽ cho aster sapogenin C18H36O8 arabinoza. Ngoài ra còn chứa chất xêton là shionon C34H56O và một chất flavonozit gọi là quexetin.
Tác dụng dược lý
- Uống astersaponin có tác dụng trừ đờm. Quexetin có tác dụng lợi niệu (Tăng Quảng Phương 1936, Trung Hoa y học tạp chí).
- Hoàng Khánh Chương (1954, Trung Hoa y học tạp chí) đã báo cáo: Dùng dung dịch iôt tiêm vào sườn mèo để gây ho, rồi dùng nuớc sắc tử uyển 50% cho mèo uống với liều 1g/1kg thể trọng không thấy có tác dụng trị ho rõ rệt.
- Cao ứng Dầu và Trương Sán (1956, Trung Hoa y học tạp chí) tiếp tục nghiên cứu, dùng nước sắc tử uyển 25% trên thỏ gây mê bằng urêtan đã chứng minh được tử uyển có tác dụng trừ đờm, tác dụng này duy trì trên 4 giờ đối với con vật.
- Astersaponin có tính chất phá huyết rất cao. Pha loãng 50.000 lần vẫn còn tác dụng phá huyết.
Công dụng và liều dùng
- Chữa ho nhiều đờm, viêm khí quản cấp tính hoặc mãn tính. Thường dùng phối hợp với nhiều vị thuốc khác. Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc viên.
- Còn dùng làm thuốc thông tiểu tiện, chữa tiểu tiện ra huyết.
- Trong tài liệu cổ: Tử uyển vị đắng, ngọt, tính ôn, không độc, vào kinh phế. Tác dụng ôn phế, hoá đờm, hạ khí, chỉ ho, thông điều thuỷ đạo. Dùng chữa ho, khí xuyễn, ho ra máu mủ, tiểu tiện đỏ. Phàm âm hư, phổi ráo, có thực nhiệt không được dùng.
Theo y học cổ truyền ở Hồ Nam và Giang Tây, Trung Quốc, cây được dùng để nấu nước rửa các vết sưng viêm không rõ nguyên nhân;
Tại Quý Châu, Trung Quốc, tử uyển giúp chữa cảm mạo phong nhiệt;
Toàn cây, bao gồm cả rễ, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, cầm máu. Cây thường được sử dụng để giảm đau họng, chữa ho có đờm, khó tiểu, mụn nhọt sưng viêm và cầm máu khi bị chảy máu ngoài da. Ngoài ra, vào mùa xuân và mùa hè, phần thân và lá non của cây có thể thu hái, luộc sơ qua để xào, trộn gỏi hoặc nấu canh, vừa làm thực phẩm bổ dưỡng vừa hỗ trợ sức khỏe.
Đơn thuốc có tử uyển
- Chữa trẻ con ho không ra tiếng: Tử uyển và hạnh nhân hai vị bằng nhau, tán nhỏ, viên với mật bằng hạt ngô. Ngày uống 3-4 viên, chia làm nhiều lần uống.
- Đơn thuốc chữa ho gà ở Cao Bằng (đã được Xí nghiệp dược phẩm I sản xuất): Bách bộ 0,05g, lá tía tô 0,025g, trần bì 0,05g, tử uyển 0,025g, cát căn 0,025g, cồn cà độc dược 0,015g. Tất cả trộn đều làm thành viên. Dưới 1 tuổi ngày uống 1 viên, chia làm 2 lần uống. Từ 1-13 tuổi mỗi tuổi ngày 1 viên, chia làm 2-3 lần uống trong ngày. 13 tuổi trở lên và người lớn: Ngày uống 13- 20 viên chia làm 2-3 lần uống.
- Đơn thuốc chữa viêm khí quản mãn tính (ho lâu ngày): Tử uyển 10g, khoản đông hoa 10g, bối mẫu 10g, cam thảo 3g, cát cánh 7g, hạnh nhân 10g, nước 600ml sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày.
(Đơn thuốc của Diệp Quyết Tuyền).