Mô tả
- Dương xỉ, cao 20 – 30 cm. Thân mọc bò, ngầm dưới đất, có nhiều lông màu nâu. Rễ chùm.
- Lá to, rộng, chia làm 3 – 4 nhánh, mỗi nhánh mang những lá chét chẻ lông chim sâu, các nhánh bậc nhất lại chẻ nhiều lần, các nhánh chẻ cuối cùng có phiến dạng trái xoan – ngọn giáo, dài khoảng 25 cm, rộng 6 cm, chia lông chim sâu; các đoạn cuối cùng hình dải dài 2 cm, rộng 0,2 cm, có chóp tròn, mép nguyên cuộn lại, hai mặt nhẵn; gân ở các thuỳ có dạng lông chim và thường chẻ đôi từ gốc; lá kèm ngắn, chia thuỳ nhiều hay ít.
- Ổ túi bào tử nằm ở gần chỗ giữa gân nhỏ, gồm 7 – 8 túi bào tử, không có áo túi, bào tử hình 4 mặt không đều, không màu, có cạnh dày màu nâu.
- Mùa sinh sản: tháng 1 – 8.
Phân bố, sinh thái
Chi Dicranopteris ở Việt Nam có 2 loài có kích thước lớn đều được dùng làm thuốc là D.dichotoma (Thumb.) Bernh và D. linearis (Burm.f) Undrew. Trên thế giới, vọt đồi phân bố ở Trung Quốc, Lào… Ở Việt Nam, cây phân bố rộng khắp từ các tỉnh ở vùng trung du và miền núi đến độ cao khoảng 1.000m.
Vọt đồi là loại dương xỉ ưa sáng, thường mọc thành đám dày đặc trên các đồi cây bụi, thậm chí lấn át cả những cây bụi vốn có hoặc ở dưới rừng thông. Nơi có loài cây này mọc, đất thường nghèo dinh dưỡng và rất chua.
Bộ phận dùng:
Thân rễ, chồi lá.
Tác dụng dược lý
Tác dụng kháng khuẩn: Nước sắc lá cây vọt đồi có tác dụng ức chế một số chủng vi khuẩn.
Tính vị, công năng
Thân rễ và lá non cây vợt đồi có vị ngọt, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, hoá ứ.
Công dụng
Thân rễ cây vọt đồi được dùng làm thuốc trị giun, lá cây để chữa hen. Liều dùng, ngày 9 – 15g sắc uống. Đọt non của cây vọt đồi có thể ăn được.
- Theo tài liệu Ấn Độ thân rễ cây vọt đồi chữa giun sán; dịch chiết lá cây có tác dụng kháng khuẩn và được dùng chữa hen.
- Ở Malaysia, lá cây vọt đồi rửa sạch, giã nát, làm thành miếng thuốc đắp, rang nóng, rồi đắp lên trán và thái dương cho người bệnh bị sốt; có thể sắc đặc rồi xoa. Cũng có thể hãm lá khô uống, nhưng không dùng liều cao và có độc.