Prunus cerasoides D.Don.
Mô tả
- Cây gỗ nhỏ cao 5-10m, có vỏ xám, lốm đốm các lỗ khí tròn hay hình trái xoan.
- Lá sớm rụng, mỏng, nhắn, hình trái xoan hay thuôn – ngọn giáo, tròn hay hơi thon hẹp lại ở gốc, có mũi nhọn sắc, mép có răng cưa, với răng đơn hay kép, tận cùng là một cái tuyến nâu, dài 5-12cm, rộng 2,5-5cm; cuống lá nhẵn, dài 8-15mm, có 2-4 tuyến dạng đĩa ở chóp có cuống hay không.
- Hoa màu hồng, xuất hiện trước khi có lá thành cụm hoa bên gần như dạng tán thường có 3 hoa. Quả hạch hình cầu hay dạng trứng, rộng 10-12mm, màu đỏ, có hạch cứng với vách dày.
- Ra hoa tháng 12 đến tháng 1 năm sau, trước khi ra lá; có quả từ tháng 2 đến tháng 4-5.
Phân bố, sinh thái, bộ phận dùng
Sinh thái: Mọc rải rác trong rừng thưa, rừng thường xanh, ở độ cao 100-1800m.
Phân bố: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Hòa Bình, Ninh Bình, Lâm Đồng. Cây được trồng nhiều nhất ở thành phố Đà Lạt. Còn có ở Nepan, Mianma, Trung Quốc, Lào, Thái Lan.
Bộ phận dùng:
- Nhân hạt – Semen Pruni.
Thành phần hóa học
- Nhân hạt chứa amydalin, plunasetin (isoflavon), sakurametin, puddumetin (flavon).
- Vỏ cây chứa flavonon glucosid là sakuranin và chalcon glucosid, một neosakuranin.
Tính vị, tác dụng
Vị đắng, ngọt. Có tác dụng nhuận trí hoạt tràng, hạ khí lợi thủy.
Công dụng
Quả có vỏ quả khá dày, thịt đỏ, mọng nước, ngọt, mùi dễ chịu, có thể ăn được và chế rượu uống, người ta đã chế ra loại rượu Anh đào của Đà lạt.
Ở Ấn Độ, các cành nhỏ được dùng làm nguyên liệu thay thế acid hydroyanic, nhân hạt được dùng là thuốc trị sỏi và sỏi thận.
Ghi chú:
- Lá, hạch và quả cây Anh đào – Prunus pseudocerasus Lindl., có quả ăn được, nhân hạt được dùng làm thuốc.
- Lá giải độc thâu chẩn, hạch quả thanh nhiệt thấu chẩn, quả ích khí khư phong thấp.