Bò tên khoa học là: Bos taurus domesticus Gmelin. Sữa bò rất tốt cho mọi lứa tuổi, làm phục hồi nhanh sức khỏe, nhất là đối với cơ thể đang trong tình trạng suy yếu như lao lực quá độ, mới ốm dậy. Đối với trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, sữa bò chỉ đứng sau sữa mẹ.
Tên tiếng việt: Bò
Tên khoa học là: Bos taurus domesticus Gmelin
Tên khác: Bò nhà, Bò nuôi
Họ: Bò (Bovinae)
Mô tả
- Bò trưởng thành nặng 300 – 1200 kg, có khi hơn tùy theo giống. Thân to khỏe. Đầu có sọ rộng, trán bằng hơi lõm, sừng rỗng cong sang hai bên hoặc hướng ra phía trước, mũi trơn ẩm, mắt to, Cổ to dày. có yếm ở phía dưới. Lưng thẳng, bụng to, bầu vú có 4 núm. Đuôi dài có túm lông ở phần cuối. Bộ lông tùy theo giống: một màu (vàng, đen, trắng, nâu, nâu đỏ). hai màu (đen trắng, trắng nâu) hoặc ba màu (đen,trắng, nâu).
- Ở Việt Nam, có nhiều giống bò.
- Bò Việt Nam, tên khác là bò Vàng: Thân hình nhỏ, nặng 180 – 300 kg gồm các giống Lạng Sơn, Phú Yên, Khánh Hòa, Nghệ An.
- Bò nhập. Thân hình to khỏe, nặng từ 400 kg trở lên, gồm các giống Hà Lan, Xin Ấn Độ, Thụy Sĩ.
- Sau đó, người ta cho phối giống bò nhập với bò địa phương để được giống lai có tầm vóc, khối lượng và năng suất thịt và sữa cao.
Phân bố, sinh thái
- Bò nhà được thuần hóa từ bò rừng (Bos Javanicus) cách đây hàng nghìn năm. Lúc đầu, bò được nuôi ở Ấn Độ, sau phát triển rộng rãi ở châu Á, châu Âu và châu Phi để lấy thịt, sữa và sức kéo.
- Hiện nay, có những giống bò thịt ở 12 – 15 tháng tuổi đã nặng 420 – 450 kg với tỷ lệ thịt xẻ khoảng 60% va giống bò sữa với sản lượng sữa trung binh 6000 – 7000 kg/chu kỳ 300 ngày.
- Ở Việt Nam, bò được nuôi ở khắp nơi. Vào những thập kỷ gần đây, ngành bò sữa đã được đẩy mạnh và phát triển.
Bộ phận dùng
- Thịt, sữa, mật, gan và sạn hay sỏi trong túi mật của bò (ngưu hoàng). Nhiều bộ phận khác của con vật cũng được dùng.
- Cách lấy ngưu hoàng: Những con bò, già, gây yếu, lờ đờ, thở khò khè, thường có ngưu hoàng. Khi làm thịt bò, nếu nắn túi mật thấy có vật rắn cứng (chính là ngưu hoàng) thì mở túi lấy riêng ra, không rửa nước mà lau sạch các màng nhầy bám xung quanh bằng vải mềm hoặc gạc sạch. Không phơi nắng hoặc sấy lửa làm ngưu hoàng nứt vỡ, kém phẩm chất. Bảo quản ngưu hoàng bằng cách bọc bông, rồi cho vào một cái túi vải thưa, buộc cẩn thận, cho vào hộp kín có vôi cục hoặc gạo rang để hút ẩm. Mùa thu hoạch ngưu hoàng có thể diễn ra quanh năm. Dược liệu có kích thước không cố định, to có thể bằng quả trứng gà, nhỏ bằng hòn cuội hoặc viên sạn. Mặt cắt có màu vàng nâu hoặc nâu đỏ. Ngưu hoàng tổng hợp có dạng bột, màu cá vàng, mùi thơm như mít chín, đựng trong lọ màu. tránh ánh sáng.
Thành phần hóa học
- Thịt bò chứa protid (12 – 20%), lipid (10 – 14%). muối khoáng, vitamin và cholesterol (70 mg%).
- Sữa bò chứa 87% nước, 3,5% protid, 3,9 – 4,4% lipid, 4,6% đường, 0,7% muối khoáng, nhất là Ca (123 mg%), 22 mg% cholesterol và cung cấp 171 callo/100g thịt
- Mật bò có sắc tố mật, muối và acid mật.
- Sạn hay sỏi mật bò chứa acid cholic, cholesterol, acid béo, bilirubin, vitamin D, các muối khoáng.
Tính vị, công năng
- Thịt bò có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ tỳ vị, ích khí, lợi huyết, mạnh gân xương.
- Sữa bò có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ dưỡng, nhuận tràng, kích thích tiêu hóa.
- Ngưu hoàng có vị đắng, tính bình, vào kinh tâm can, có tác dụng thanh nhiệt, trấn kinh, mạnh tim, giải độc. Mật bò có vị đắng, mùi tanh, tính lạnh, có tác dụng mát gan, sáng mắt, giải độc, tiêu sưng, kích thích tiêu hóa. Gan bò có vị ngọt, đắng, tính bình, có tác dụng bổ gan, dưỡng huyết, sáng mắt.
Công dụng
Thịt bò là một thực phẩm rất phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, thịt bò ít được dùng làm thuốc, trái lại ở Trung Quốc, người ta chế biến thịt bò với nhiều loại dược liệu và gia vị thành những món ăn – vị thuốc rất thông dụng: Thịt bò (100g), nấu nhừ với hồ tiêu, sa nhân, trần bì, vỏ quế (mỗi vị 3 g), gừng tươi (15 g), thêm ít muối, ăn ngày hai lần. Thuốc bổ tỳ vị, kích thích tiêu hóa, với thảo quả (6 g) chữa đau dạ dày do hàn. Để chữa chứng tích trệ, trướng bụng, lấy thịt bò (0,5 kg) phối hợp với thường sơn (10 g), hầm nhừ ăn làm nhiều lần trong ngày.
Sữa bò rất tốt cho mọi lứa tuổi, làm phục hồi nhanh sức khỏe, nhất là đối với cơ thể đang trong tình trạng suy yếu như lao lực quá độ, mới ốm dậy. Đối với trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, sữa bò chỉ đứng sau sữa mẹ. Ở các nước phương tây, sữa bò được dùng với tỷ lệ cao khoảng 90%. Dạng dùng thông thường là sữa tươi, sữa nước, sữa đặc có đường, sữa bột. Sữa bò (250 g), mật ong (100 g), nước lá hành (50 ml) nấu chín, uống hàng ngày, chữa táo bón kinh niên.
Váng sữa (lớp đông đặc trên mặt sữa bò đun sôi. để nguội) 20 – 30 g trộn với mật ong (15 g), gạo nếp (50 – 100 g), nước vừa đủ để nấu thành cháo. Mỗi ngày ăn 1 – 2 lần. Thuốc bổ ngũ tạng, ích khí huyết. làm bóng da, mượt tóc (Tài liệu nước ngoài).
Mật bò chữa đau bụng, đau dạ dày, suy gan, vàng da, rối loạn tiêu hóa, táo bón, bệnh về mắt, khát nước, trẻ em cam tích, lở loét. Mật rất đắng nên thường được chế biến như mật lợn để dùng (xem Mật lợn). Liều dùng hàng ngày của cao mật bò là 0,5 – 2 g chia làm hai lần. Có thể làm viên mật bò theo kinh nghiệm của Bệnh Viện Nam Định như sau: Cao mật bò (100 g), lưu hoàng đã rửa lại (100 g), bột hoạt thạch (150 g), tinh dầu bạc hà (20 giọt). Tất cả trộn đều, làm thành viên 0,15g. Ngày uống 20 – 30 viên, chia làm 2 – 3 lần. Dùng liền một tháng. Để chữa viêm gan virus (thuốc đặc trị), lấy mật bò (1 cái) đã chế biến thành cao, trộn với long đởm thảo (40 g), phơi khô, tán bột, làm thành Viên. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 4-8 g.
Gan bò đã được bào chế bằng phương pháp thủy phân hoàn toàn để được cao gan chứa acid amin, dẫn chất puric và vitamin B12, Thuốc giúp cho nhu mô gan chóng hồi phục, ngăn ngừa sự tích luỹ mỡ ở tế bào gan, kích thích quá trình chống độc của gan và tạo các hồng cầu mới chữa viêm gan mạn tính, xơ gan, tổn thương gan do nhiễm độc máu ở phụ nữ có thai, người bị thiếu máu, suy nhược. Các biệt dược chứa gan bò như: Hépaphos (dạng Sirô), 100 ml chứa 10 g cao gan, 0,5 g natri glycerophosphat, 0,7 g dinatri phosphat. Trẻ em uống mỗi lần 1 thìa cà phê, ngày 2 lần, người lớn ngày 4 thìa cà phê, chia 2 lần. Uống trước bữa ăn, Hepavina (dạng tiêm), ống 2 ml chứa dịch chiết từ cao gan thủy phân có 20 µg Vitamin B12. Ngày tiêm 1 – 2 ống.
Gan bò (250 g), táo tàu (15 quả), thái nhỏ, ninh nhừ, ăn trong ngày chữa tim đập mạnh do hoảng sợ, mệt mỏi (Tài liệu nước ngoài).
Sạn hay sỏi mật của bò: Hằng năm, vị thuốc пàу vẫn phải nhập của nước ngoài. Theo tài liệu cổ, ngưu hoàng được dùng chữa các chứng sốt cao, phát cuồng. kinh phong, viêm họng, mụn nhọt. Liều dùng hàng ngày là 0,3 – 0,6 g dưới dạng thuốc bột hoặc thuốc hoàn. Dùng riêng hoặc phối hợp với sừng tê giác, xạ hương, hoàng cầm. Ngưu hoàng và phèn chua (lượng bằng nhau) tán nhỏ, rây bột mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 2 – 3 viên với nước trúc lịch lại chữa trúng gió, miệng mắt méo xệch, đờn dãi tiết liên tục, khó thở (Vũ Văn Kính).
Phụ nữ có mang không được dùng ngưu hoàng. Vì dễ bị sẩy thai.
Nhân dân ở một số vùng còn dùng mũi bò (1 cái) và cuống quả bí ngô (20 cái) rửa sạch, thái nhỏ, rang khô giòn, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày để chữa sẩy thai. Xương ống chân bò chặt nhỏ, ninh nhừ, lấy nước cốt, nấu với gạo thành cháo cho trẻ ăn hàng ngày chữa gầy còm, da xanh. chậm mọc răng, chậm biết đi. Dương vật và tinh hoàn bò (ngẩu pín) chữa thận hư, thiểu năng sinh dục, liệt dương, di tinh, xuất tinh sớm, đái són. Dạng dùng: ngẩu pín làm sạch, sấy khô, tán bột, ngày uống 2 lần. mỗi lần 2 g với nước muối nhạt. Hoặc ngẩu pín băm nhỏ, rồi nấu với rượu và đường thành cao, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh với nước ấm.
Viện Y học cổ truyền đã có sáng kiến dùng 5 loại xương là xương bò hay xương lợn (7 kg), xương chó (5 kg), xương chân gà (3 kg), xương khỉ (2 kg), xương trăn (1 kg) nấu thành “cao ngũ cốt” dùng bồi dưỡng và phuchбistickhöe citing rät tб. Trước đây, nhiều phủ tạng của bò được điều chế thành biệt dược Filatov dựa trên nguyên tắc các tổ
Chức này trong hoàn cảnh sống không thuận lợi như nhiệt độ thấp, sẽ tiết ra chất kích sinh (biostimulin). Chất này có tác dụng kích thích các quá trình hoạt động của cơ thể, tăng cường sự trao đổi vật chất, chức phận sinh lý, sức kháng khuẩn…, do dó. nâng cao sức đề kháng của cơ thể đối với một số bệnh như lao, loét dạ dày, hen suyễn, phong thấp, một số bệnh về mắt.
Thuốc được bào chế dưới nhiều dạng khác nhau như thuốc tiêm, thuốc uống, cốm. Theo tài liệu nước ngoài, ở Trung Quốc, người ta còn dùng một số bộ phận của con bò để chữa bệnh như sau:
Dạ dày bò (1 cái) ninh nhừ với hoàng kỳ (30 g). Ăn cái, uống nước. Chữa tiêu hóa kém, đầy bụng.
Đuôi bò (1 cái) ninh nhừ với đương quy (30 g). thêm muối. Ăn cả cái lẫn nước. Chữa đau lưng, liệt dương do thận hư.
Gan bò (100 g) nấu với khởi tử (50 g). Ăn cả cái lẫn nước. Chữa bệnh váng đầu, hoa mắt do gan, huyêt. Kém.
Dương vật bò (1 cái) hấp cách thủy với khởi tử (20 – 40 g) thêm ít gừng. Ăn chữa liệt dương.
Y học hiện đại đã điều chế từ gan và phổi bò thuốc Heparin để chữa các chứng viêm tắc tĩnh mạch, nhồi máu cơ tim và phân lập từ tuyến yên của bò một glycoprotein có tác dụng chữa viêm tuyến giáp cấp
Ghi chú: Kinh nghiệm dân gian cho rằng thịt bò có tác dụng co rút nên phụ nữ sau khi đẻ thường ăn thị. Bò kho để chóng hồi phục tử cung bị rãn trong khi đẻ. Những người bị thương ở bắp thịt. gân, xương, không nên ăn thịt bò trong thời gian điều trị, vì có thể bị co cơ, co gân.